ở Việt Nam thu hồi và tái chế, tái sử dụng chất thải còn hạn chế, việc xử lý chất thải chủ yếu là chôn lấp. Tái chế và sử dụng sẽ được đề cập ở mục 8.5 dưới
đây. Hiện tại ch−a có các lò đốt rác thải đô thị vì lý do: một là chi phí đầu t− và chi phí vận hành các lò đốt rác khá cao so với chi phí chôn lấp. Thí dụ, chỉ tính riêng chi phí đốt chất thải y tế nguy hại hiện nay là khoảng 5.000 đ/kg, trong khi
đó chi phí cho cả thu gom và xử lý chất thải y tế thông thường chỉ vào khoảng 170 đ/kg. Hai là, tỷ lệ chất thải hữu cơ trong thành phần chất thải sinh hoạt đô thị khá cao (1/2), do vậy sẽ tốn nhiều năng l−ợng hơn cho việc đốt chất thải.
Các bãi chôn lấp chất thải ở các địa phương, kể cả ở các đô thị lớn, được xây dựng ch−a hợp vệ sinh và ch−a đ−ợc quy hoạch phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh và rộng của sản xuất, kinh doanh cũng nh− của đô thị hoá. Hiện tại (2004) mới có khoảng 10 trong số 64 tỉnh thành phố ở Việt Nam có bãi chôn lấp hợp vệ sinh và đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. ở thời điểm giữa năm 2004 mới chỉ có khoảng một nửa số tỉnh, thành phố trong cả n−ớc (32/64) có dự án đầu t− xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó 13 đô thị đã khởi công xây dựng9.
Sự tồn tại các bãi chôn lấp chất thải ở các địa phương đang tạo nên những nỗi bức xúc về môi trường không chỉ cho cộng đồng dân cư gần bãi chôn lấp mà còn cả c− dân ở các địa bàn thu gom chất thải. Trong một số năm gần đây ở các thành phố Hà Nội và Hải Phòng đã từng xảy ra tình trạng người dân nơi có bãi chôn lấp chất thải của thành phố đã ngăn cản không cho xe chở chất thải sinh hoạt đến đổ ở bãi rác, làm ngừng trệ hoạt động thu gom chất thải ở nhiều quận trong thành phố nhiều ngày liền, gây tốn kém về kinh tế và công sức cho các giải pháp xử lý tình thế (Hộp 8.2).
Hộp 8.2. Thành phố Hải Phòng: nỗi bức xúc nơi chôn lấp chất thải.
16 giờ ngày 6 tháng 8 năm 2004, dân phường Tràng Cát ra đứng giữa
đường chặn xe chở rác của Công ty môi trường đô thị Hải Phòng xuống bãi rác Tràng Cát. Mỗi ngày thành phố thải ra 1.100m3 rác r−ởi. Một ngày rác nằm lại trên đường phố Hải Phòng đủ làm đau đầu các nhà lãnh đạo. Trong 3 ngày Thành phố Hải Phòng ứ hàng ngàn mét khối rác. Ông Trần Huy Tản, Giám đốc Công ty Môi trường đô thị Hải Phòng, đã cho đi mua ba vạn chiếc bao tải ở Nhà máy đay Thái Bình đựng rác. Tất cả chỉ là giải pháp tình thế, khi xe chở rác vẫn bị ng−ời dân Tràng Cát “cấm đ−ờng”.
Nguồn: Báo Lao động, số 222, ngày 9/8/2004.
Việc xử lý chất thải thông thường gặp nhiều khó khăn như vậy, đối với chất thải nguy hại (công nghiệp, y tế) thì lại còn nhiều khó khăn hơn và bức xúc hơn.
Nh− đã nói ở phần phát thải, sự thiếu vắng số liệu thống kê chính thức về phát thải chất thải (rắn, lỏng, khí) nguy hại cũng có nghĩa là loại chất thải này còn ch−a đ−ợc quản lý và xử lý tốt. Đó là ch−a kể, sau nhiều năm chiến tranh,
9 Con số này tiếp tục tăng lên bởi sự thúc ép của nhu cầu và yêu cầu bảo vệ môi trường, cũng như áp lực của cộng đồng dân cư nơi cơ bãi chôn lấp rác thải.
còn tồn lưu các hoá chất độc ở nhiều địa bàn, và nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật không còn giá trị sử dụng cũng còn tồn đọng khá nhiều đòi hỏi phải sớm có giải pháp xử lý. Năng lực quản lý chất thải nguy hại nói chung và xử lý chất thải nguy hại nói riêng ở Việt Nam còn rất hạn chế. Các chất thải rắn nguy hại công nghiệp phát sinh và tập trung chủ yếu ở các khu vực kinh tế trọng điểm và phần lớn đang được lưu giữ tạm thời để chờ xây dựng các cơ sở xử lý. Các chất thải nguy hại công nghiệp cũng phát sinh từ các cơ sở sản xuất tái chế chất thải, tập trung ở các làng nghề tái chế chất thải (chủ yếu là trong n−ớc thải) . Sự ô nhiễm bởi các chất thải nguy hại ở các làng nghề tái chế tăng lên rất nhiều bởi n−ớc thải với các chất thải nguy hại (kim loại nặng, hoá chất độc,...) không đ−ợc xử lý và xả thẳng vào các nguồn n−ớc (sông, hồ) hoặc cống rãnh thoát n−ớc tự nhiên trong làng.
ở Việt Nam, cũng nh− ở nhiều n−ớc đang phát triển khác, ph−ơng thức xử lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn nguy hại công nghiệp nói riêng, vì
nhiều lý do (kinh tế, quản lý,...), h−ớng chủ yếu vào chôn lấp (tới 96% l−ợng chất thải thu gom). Phương thức xử lý chất thải rắn nguy hại bằng thiêu đốt cũng đang được các nhà quản lý môi trường Việt Nam tính đến thông qua tận dụng, sử dụng công nghệ sản xuất xi măng đang rất phát triển ở Việt Nam. Với phương thức xử lý thiêu đốt chất thải rắn nguy hại, như đã biết, trên thế giới có 2 loại chính là thiêu đốt bằng lò chuyên dụng (lò chỉ để đốt chất thải) và thiêu
đốt bằng lò xi măng. Thiêu đốt bằng lò xi măng đ−ợc xem là −u việt hơn vì tận dụng đ−ợc nguồn nguyên liệu và việc xử lý môi tr−ờng tốt hơn.
Đối với chất thải y tế thì chất thải rắn y tế hiện th−ờng đ−ợc thu gom và xử lý chung cùng với chất thải rắn đô thị, là đ−a đi chôn lấp ở bãi rác. Còn đối với chất thải rắn y tế nguy hại thì phương pháp đốt đang được áp dụng với tỷ lệ
đốt ngày càng tăng nhờ những cố gắng nỗ lực đầu tư của Nhà nước. Hiện tại trên phạm vi cả nước có 61 lò đốt chất thải y tế, trong đó có 14 lò đốt do Việt Nam thiết kế và chế tạo. Đầu t− trung bình cho 1 lò đốt y tế thiết kế và sản xuất trong nước cỡ 300 triệu đồng và cho 1 lò đốt nhập ngoại là cỡ 3 tỷ đồng. Tuy vậy, các lò đốt chất thải y tế nguy hại hiện có này còn ch−a đ−ợc sử dụng hết công suất và việc xử lý chất thải y tế nguy hại không đúng kỹ thuật đã gây ra những rủi ro về sức khoẻ. Hầu hết các khoản đầu t− từ nguồn trong n−ớc và quốc tế cho các dự án lò đốt đều tập trung vào việc mua thiết bị trong khi đó thì
các bệnh viện đều phải tự đầu t− tài chính để trang trải cho các khoản chi phí vận hành lò đốt (nh− tập huấn, mua nhiên liệu, nhân sự) từ nguồn kinh phí hiện có của bệnh viện. Chính vì vậy các bệnh viện không có đủ nguồn lực tài chính
để vận hành các lò đốt, các chất thải y tế nguy hại thường không được xử lý một cách thích hợp và th−ờng xuyên bị lẫn với các loại chất thải y tế thông th−ờng khác (Hộp 8.3).
Hộp 8.3. Đốt chất thải y tế nguy hại ở Việt Nam
Mặc dù công suất hiện tại của tất cả các lò đốt chất thải y tế ở Việt Nam có khả năng đáp ứng cho hơn 50% tổng l−ợng chất thải y tế lây nhiễm, nh−ng phần lớn các lò đốt này ch−a hoạt động hết công suất do các khó khăn về tài chính.
Nhiều lò đốt chỉ vận hành 2 lần một tuần hoặc là từ 4 đến 6 giờ mỗi ngày. Ví dụ nh− ở Hà Nội nơi có số lò đốt có khả năng đáp ứng tới 70% tổng l−ợng chất thải y tế (3.600 kg/ngày) thì l−ợng chất thải thực sự đ−ợc thiêu đốt trong năm 2003 cũng chỉ dao động từ 18% đến 33% tổng l−ợng chất thải phát sinh.Một số bệnh viện giải quyết vấn đề thiếu nguồn tài chính bằng cách áp dụng chế độ thu phí sử dụng đặc biệt cỡ 1.000 đồng/giường/ngày để trang trải cho chi phí vận hành lò
đốt (cụ thể là Bệnh viện Lao Hà Nội, Bệnh viện Nhi đồng Vinh)1. Các bệnh viện ở các vùng lân cận nhau cũng đang đ−ợc khuyến khích xây dựng các hệ thống lò
đốt dùng chung để có thể chia sẻ chi phí vận hành.
Nước thải từ các bệnh viện đang còn là một vấn đề không nhỏ đối với môi tr−ờng bởi hai lý do. Một là, cũng giống nh− trong sản xuất công nghiệp, đa phần n−ớc thải của bệnh viện hầu nh− không đ−ợc xử lý tr−ớc khi thải vào hệ thống thoát nước chung. Hai là, cơ sở hạ tầng của các địa bàn nơi có bệnh viện, nhất là ở các thị trấn, huyện lỵ và vùng nông thôn, miền núi, còn yếu kém, hầu hết tất cả các nguồn nước thải (công nghiệp, sinh hoạt, y tế) đều đổ chung vào hệ thống thoát nước chung, để rồi sau đó thải ra sông, gây ô nhiễm các nguồn n−ớc mặt.
Nhìn chung, việc xử lý chất thải ở Việt Nam hiện còn ch−a tốt, tạo nên sức ép và thách thức ngày càng gia tăng đối với bảo vệ môi trường và việc khắc phục chúng đòi hỏi thời gian và nguồn tài chính không nhỏ. Hiện tại có tới 96%
chất thải thu gom đ−ợc vận chuyển tới bãi chôn lấp không chỉ làm tăng gánh nặng cho việc tìm kiếm các địa điểm lựa chọn làm nơi chôn lấp chất thải rắn, làm tăng các nguy cơ, hiểm hoạ đối với môi trường và sức khoẻ người dân xung quanh mà còn làm lãng phí một nguồn vật liệu và năng l−ợng có thể thu hồi cho tái chế và sản xuất (thí dụ sản xuất phân bón hữu cơ compost).