Công tác quản lý chất thải rắn ở Thủ đô Viêng-Chăn

Một phần của tài liệu GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ TỔNG HỢP CHẤT THẢI (Trang 191 - 200)

CHDCND Lào có 16 tỉnh (hay còn gọi là khouengs): Attapu, Bokeo, Bolikhamxai, Champasak, Houaphan, Khammouan, Louangnamtha, Louangphrabang, Oudomxai, Phongsali, Salavan, Savannakhet, Viangchan, Xaignabouli, Xekong, và Xiangkhoang. Ngoài 16 tỉnh nói trên, Lào còn có một đặc khu (Xaisomboun) và

một đô thị tự trị (Viêng-chăn) (CIA, 2004). Ngân hàng Phát triển Châu á (2000)

ước tính tỷ lệ rác đô thị CHDCND Lào ở mức 0,75kg/người/ngày, trong đó 30% là các chất hữu cơ, 30% nhựa, 15% giấy vụn và 25% thuỷ tinh, vỏ đồ hộp và các kim loại khác. Hàm l−ợng các chất hữu cơ trong chất thải rắn đô thị ở Lào còn thấp do phần lớn l−ợng thức ăn thải ra đ−ợc tận dụng để nuôi gia súc, thậm chí điều này còn diễn ra ở cả các trung tâm đô thị lớn hơn.

9.2.1 Thu gom vμ tiêu hủy rác thải đô thị

Thủ đô Viêng-chăn có dân số xấp xỉ 600.000 người và tỷ lệ gia tăng đô thị cao nhất trên cả n−ớc ở mức 4,7%/năm (UNEP 2001). Viêng-chăn có tất cả 9 quận, huyện nh−ng hiện nay cơ sở hạ tầng quản lý chất thải chỉ đủ phục vụ 4 quận:

Chanthaboury, Sikhottabong, Sisattanak và Xiasetta. ở Viêng-chăn, chất thải thu gom từ các hộ gia đình được vận chuyển đến bãi rác thành phố, thường gọi là “Ki- lô-mét số 18”. Bãi rác này đ−ợc xây dựng năm 1998 với sự trợ giúp của Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), nằm ở ki-lô-mét 18 tính từ trung tâm thành phố, với diện tích 62 héc-ta. Theo dự kiến, bãi rác này có thể hoạt động trong vòng 15 năm hay nói cách khác, nó sẽ tiếp tục hoạt động đến năm 2013 (Nanthanavon 2002). Sự gia tăng khối l−ợng chất thải đ−ợc tiêu huỷ ở bãi rác này có lẽ là do tỷ lệ phát sinh chất thải tăng cùng với sự gia tăng của việc cung ứng các dịch vụ thu gom rác.

Năm 1994, Hiệp hội rác thải Lào (LGS), một công ty liên doanh Thái Lan- Lào, đ−ợc thành lập và là tổ chức quản lý chất thải đầu tiên ở CHDCND Lào. Công ty này có trách nhiệm thu gom và tiêu huỷ l−ợng rác thải ra từ 18 làng xã của huyện Xiasetta thuộc thành phố Viêng-chăn (Wong 2004). Năm 1998, một tổ chức quần chúng về quản lý chất thải có tên là Dịch vụ làm sạch đô thị (UCS) cũng đ−ợc thành lập theo hiệp định ký kết giữa Chính phủ Lào và JICA (Wantabe 2004). Theo hiệp

định, số tiền 2,7 triệu đô la Mỹ quyên góp đ−ợc sẽ dùng để nâng cấp hạ tầng quản lý chất thải, bao gồm việc nâng cấp bãi rác thành phố và mua mới các ph−ơng tiện thu gom rác. Tại thời điểm năm 2003, UCS chịu trách nhiệm thu gom 90% l−ợng rác thải ở Viêng-chăn, 10% còn lại do LGS đảm nhiệm (Wong 2004). Các mức phí thu gom rác thải của UCS đ−ợc trình bày trong bảng 9.1.

Bảng 9.1. Các mức phí thu gom rác ở Thủ đô Viêng-Chăn

Chi tiết Mức phí

(kip/kg)

TÇn xuÊt thu phÝ

1 Các doanh nghiệp t− nhân, chợ và hộ gia đình 80 1 tháng/lần.

2 Chính phủ, các tổ chức quần chúng (Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên), cơ quan thuộc sở hữu nhà nước, nhà thờ và đền chùa

50 1 tháng/lần.

3 Đại sứ quán và các tổ chức quốc tế 1000 1 tháng/lần.

Nguồn: Dịch vụ lμm sạch đô thị, Hiệpđịnh 1804/CP., 2000.

Mặc dù các tổ chức thu gom rác thải tư nhân và nhà nước vẫn đang hoạt động nh−ng theo −ớc tính của Nanthanavone (2000), hiện chỉ có 30% số hộ gia đình ở Viêng-chăn tham gia sử dụng dịch vụ thu gom rác thải này.

Bảng 9.2. Mật độ thu gom rác thải sinh hoạt ở Thủ đô Viêng-Chăn

Quận/huyện Tổng số hộ gia đình Số hộ tham gia hợp đồng dịch vụ thu gom rác

Tỷ lệ hộ gia đình tham gia hợp đồng

Chanthaboury 11.330 5.007 44%

Sikhottabong 13.995 2.425 85%

Sisattanak 10.441 2.587 15%

Xaysettha 9.088 3.304 36%

Tổng 44.854 13.323 30%

Nguồn: Dịch vụ lμm sạch đô thị, Văn bản số 177.

Do cơ sở hạ tầng cho quản lý chất thải hầu nh− không đ−ợc đầu t− nên uy tín dịch vụ thu gom rác thải không cao, thêm vào đó các trang thiết bị cũng không

đ−ợc bảo trì th−ờng xuyên (ADB 2000). Trong một số tr−ờng hợp, nguyên nhân của sự thiếu vắng các dịch vụ thu gom rác là khó khăn của các ph−ơng tiện giao thông dùng để thu gom rác thải khi tiếp cận với các khu vực dân c−. Với một số ít các tr−ờng hợp, l−ợng rác nếu không đ−ợc thu gom thì sẽ đ−ợc tiêu huỷ nhờ việc

kết hợp công tác tái chế ở khu vực t− nhân và phi chính thức với sản xuất phân bón cho nông nghiệp và trồng trọt hộ gia đình. L−ợng rác còn lại đ−ợc tiêu huỷ bằng cách đốt cháy hoặc đổ đống trong các hố trũng hoặc thải ra các ao, hồ, nơi chứa n−íc.

Nhìn chung, tần xuất hoạt động của dịch vụ thu gom rác tới các hộ gia đình là 1 tuần 1 lần; tuy vậy, đối với các doanh nghiệp hay cửa hàng buôn bán có vị trí trên các đ−ờng phố lớn, việc thu gom rác có thể đ−ợc tiến hành hàng ngày. Thông thường, vào ngày đổ rác, các hộ đều đặt 2 hoặc 3 thùng rác đan bằng tre chứa đủ mọi loại rác lẫn lộn ra gần đ−ờng.

Những người đi thu gom rác thường đến các bãi rác để nhặt những vật liệu có thể tái chế và có thể đem bán đ−ợc cho những ng−ời đi buôn phế liệu.

Nanthanavone (2002) −ớc tính những ng−ời nhặt rác, hay còn gọi là những ng−ời bới , quét rác, nhặt đ−ợc 20 tấn trong tổng số 120 tấn rác đ−ợc chuyển đến bãi rác hàng ngày. Tuy nhiên, Lào lại rất hạn chế về khả năng tận dụng các chất có thể tái chế đ−ợc làm nguyên liệu thô, trừ vỏ chai Bia Lào và vỏ hộp đồ uống nhẹ đ−ợc trả

lại cho xí nghiệp sản xuất để tái sử dụng. Thêm vào đó, một số loại nhựa, giấy vụn và kim loại cũng đ−ợc tái chế trong công nghiệp. Ví dụ, Công ty TNHH Công nghiệp Thép Viêng-chăn thường mua kim loại vụn về để nấu thép.

9.2.2 Tái chế vμ tái sử dụng chất thải

Các chất thải có thể tái chế đ−ợc thu gom và chuyển tới khu vực t− nhân và phi chính thức và hầu hết đ−ợc xuất khẩu sang Thái Lan và Việt Nam. Mặc dù ngành thương mại và mua bán các chất tái chế ở Viêng-chăn diễn ra rất sôi động hoạt động này lại kém hiệu quả ở các đô thị cấp 2 (Luang Prabang, Thakhet, Savannakhet, Pakse) của Lào do các công ty và cá nhân thu mua của n−ớc ngoài gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vật liệu có thể tái chế ở các cùng sâu, vùng xa (ADB 2000). Một vấn đề nữa mà các nhà xuất khẩu vật liệu tái chế gặp phải chính là các rào cản th−ơng mại về xuất khẩu nhựa. Chính phủ Thái Lan

đánh thuế nhập khẩu quá nặng đối với một số loại nhựa nhất định, đặc biệt là loại nhựa đ−ợc làm sạch và cắt miếng nhỏ bằng máy cắt tr−ớc khi xuất khẩu (trong trường hợp này, số nhựa đó được liệt kê vào loại sản phẩm đã qua chế biến chứ không phải là nguyên liệu thô). Phức tạp hơn, Thái Lan còn không chấp nhận các loại nhựa ch−a đ−ợc làm sạch và ch−a qua chế biến vì nhựa này đ−ợc coi là nguy

hại đối với sức khoẻ con người. Hiện nay các cấp có thẩm quyền về quản lý chất thải và các tổ chức phi chính phủ quan tâm đến Lào đang nỗ lực vận động hành lang để Bộ Công nghiệp Thái Lan giảm thuế nhập khẩu đối với mặt hàng này của Lào nhằm khuyến khích việc tái chế các loại phế liệu (Manivong, 2002;

Nanthanavone, 2002; Vieng Kham, 2002).

Viêng-chăn hiện có 4 cơ sở buôn bán các vật liệu tái chế nằm gần bãi chôn lấp rác, các cơ sở này nhận thu mua phế liệu từ những ng−ời nhặt rác và các công nhân thu gom rác, họ phải bới và tìm nhặt các loại kim loại vụn, nhựa, vải sợi, giấy, bìa cứng và thuỷ tinh. Nhiều làng ở Viêng-chăn còn có một cửa hàng mua bán các chất tái chế để các hộ gia đình mang phế liệu đến bán; một số hộ khác lại bán rác thải có thể tái chế được của gia đình mình cho những người phế thải kéo xe bò đến từng nhà để thu mua.

9.2.3 Các dự án tái chế chất thải ở Viêng-chăn

Trong năm 2001, một dự án về nhà máy tái chế chất thải đã đ−ợc Trung tâm

Đào tạo Phát triển Hoạt động (PADETC)1 khởi xướng để thúc đẩy công tác tái chế chất thải ở 3 cộng đồng làng (Meuang Va Tha, Xiang Nhune, và Phonesinouane) và 3 tr−ờng trong các huyện gần trung tâm của Viêng-chăn. Giai đoạn đầu của dự án tập trung vào việc phát triển năng lực cho khu vực t− nhân để xử lý các chất có thể tái chế và lắp đặt, tổ chức hoạt động cho các xưởng tái chế trong 3 làng thử nghiệm và 3 tr−ờng. Các x−ởng tái chế này thu mua thuỷ tinh, nhựa, giấy và kim loại phế phẩm từ dân chúng và bán các nguyên liệu thu mua được đó cho xưởng tái chế tư

nhân, xưởng này có tên là Chareon Lào. Xưởng tái chế của làng do một đội tình nguyện được lựa chọn từ chi nhánh của các tổ chức quần chúng địa phương như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên và An ninh quản lý. Ngoài các tình nguyện viên nói trên, xưởng còn có cả các tình nguyện viên trẻ được PADETC đào tạo, gọi là ‘Kiến xanh’. Những thanh niên này đóng vai trò quảng cáo và tổ chức hoạt động cho x−ởng (Somphone 2003).

1 Các đối tác khác bao gồm Uỷ ban Phát triển Thành thị và Nông thôn (RUDC); Chính Quyền Phát triển Đô thị Viêng-chăn (VUDA); Chareon Lào, một công ty xuất khẩu chất thải tái chế, chính quyền xã và hiệu tr−ởng các tr−ờng tham gia vào dự án (UNDP, 2002).

Mục tiêu cuối cùng của dự án là thúc đẩy các hoạt động tái chế đồng thời tạo thu nhập cho các xã tham gia vào dự án, tuy nhiên tại thời điểm năm 2003, mục tiêu này vẫn chưa đạt được. ở xã Meung Va Tha, xưởng tái chế xã gần đây mới bắt

đầu đi vào hoạt động và đội ngũ quản lý địa phương đã phải thay thế rất nhiều thành viên do yêu cầu của khối l−ợng công việc ngày càng lớn trong điều hành hoạt

động của kho. Đối với trường hợp của xã Xiang Nhune, xưởng tái chế lúc đó không hoạt động do hộ gia đình chịu trách nhiệm về điều hành hoạt động của xưởng trong xã bị ốm nặng. Tuy vậy, ở xã Phonesenouane, theo tất cả các bên liên quan, dự án

đã hoạt động rất thành công.

Xưởng tái chế có có chức năng như một kho chứa, tại đó người dân được chính quyền xã khuyến khích mang các chất thải có thế tái chế đ−ợc đến bán. Bảng 9.4 liệt kê giá gần đúng của các vật liệu có thể tái chế và so sánh với các phương thức tái chế khác sẵn có trong làng.

Bảng 9.4. Bảng giá tương đối các vật liệu tái chế, Xã Phonesenouane

Mẫu vật liệu tái chế Kho tái chế của x∙ Cửa hàng tư nhân Người thu mua lưu động Thuû tinh

Chai Soda - 200 kip/chai 100 kip/chai

Bia Lào (chai to) - 300 kip/chai 150 kip/chai Bia Lào (chai nhỏ) - 250 kip/chai 50 kip/chai

Đồ uống có cồn (chai to) - 400 kip/chai 200 kip/chai Nhùa

Chai n−ớc trắng 1500 kip/kg 1500 kip/kg 500 kip/kg Các loại chai, lọ hộp

bằng nhựa khác

300 kip/kg 400 kip/kg 200 kip/kg Giấy/Bìa cứng

Bìa cứng 250 kip/kg 400 kip/kg 200 kip/kg

Kim loại

Bình, can nhôm 4000 kip/kg 700 kip/kg 4000 kip/kg Kim loại vụn 150-200 kip/kg 500 kip/kg 400 kip/kg Nguồn: Rootham, 2003

Một nghiên cứu thực hiện năm 2003 đã phát hiện rằng tỷ lệ tham gia vào các dự án xưởng tái chế còn thấp (Roothan, 2003). Nguyên nhân của vấn đề này là sự tràn lan và thay thế của các hình thức bán hàng khác, đặc biệt là hoạt động thường xuyên của những người thu mua chất thải lưu động. Họ mua trực tiếp các phế phẩm từ hộ gia đình và điều này rõ ràng là thuận tiện hơn với người dân trong xã. Hơn nữa, các cửa hàng thu mua phế liệu của địa phương thường chào giá cao hơn giá

của xưởng tái chế đối với một số mặt hàng. Do vậy, việc tái chế chất thải ở các cơ

sở t− nhân thuận tiện và mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhìn nhận vấn đề này theo chiều hướng tiêu cực bởi lẽ mục tiêu trên cuối cùng của dự án chính là thúc đẩy các hoạt động tác tái chế và toàn bộ các hoạt động này, trên thực tế, đã khá cao do có sự quan tâm và tham gia của các khu vực t− nhân và phi chính thức. Do đó đóng góp của khu vực phi chính thức vào việc giảm thiểu l−ợng chất thải tồn đọng ở bãi rác thành phố cần đ−ợc công nhận và đánh giá đúng mức. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia ở các kho tái chế cộng đồng vẫn thấp do một số dân trong xã không có thời gian và ngại phân loại rác, vì vậy họ th−ờng đem vứt rác tập trung ở các bãi chôn lấp để tiêu huỷ.

9.2.4 ChÕ biÕn ph©n compost

Trong những năm gần đây, Lào đã bắt đầu thực hiện một số dự án thử nghiệm về chế biến phân compost do các tổ chức tài trợ quốc tế khởi x−ớng. Các Dự án Quản lý Chất thải MCTPC/UNDP/NORAD khởi xướng năm 1997 đã tạo ra

đ−ợc hệ thống hệ thống quản lý chất thải ở 4 đô thị cấp 2 là Luang Prabang, Thakhek, Savanakhet và Paske. Một phần dự án này còn bao gồm cả nghiên cứu về tính khả thi của việc đ−a thêm các hoạt động chế biến phân compost vào các hệ thống quản lý chất thải ở các thành phố này. Bên cạnh đó, Trung tâm Đào tạo phát triển hoạt động, liên kết với các bên liên quan khác, đã khởi xướng một dự án chế biến phân compost, sử dụng chất thải hữu cơ từ các hộ gia đình làm nguyên liệu và

áp dụng kỹ thuật chế biến phân compost bằng vi khuẩn (vermi-composting) tại trường Nong Bothon, thủ đô Viêng-chăn.

Chế biến phân compost từ các chất thải hữu cơ ở đô thị không phải là một khái niệm mới đối với người dân Châu á. Vào những năm 70 và 80, nhiều nhà máy cơ học chế biến phân compost quy mô lớn đã đ−ợc xây dựng ở nhiều thành phố lớn của Châu á cũng nh− Châu Phi và Trung Đông. Tuy nhiên, hầu hết các nhà máy

này không tồn tại đ−ợc lâu và một số không hoạt động hết công suất (Furedy 2002).

Trên thực tế, các loại hình nhà xưởng chế biến phân compost này đòi hỏi vốn đầu tư

lớn và thị trường bị bão hoà đã làm giảm nhu cầu sản phẩm. Việc thay thế các bộ phận máy móc cũ hay nhập khẩu công nghệ mới quá tốn kém và do đó nhiều thành phố nhận thấy việc ngừng hoạt động các cơ sở chế biến phân compost này có lợi hơn cả.

Do thất bại của những việc làm tr−ớc đây, các sáng kiến mới về chế biến phân compost hiện tập trung vào các hoạt động quy mô nhỏ dựa vào cộng đồng, tận dụng các công đoạn tập trung lao động với số vốn đầu t− không đáng kể. Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn nảy sinh một số vấn đề liên quan đến quy mô hoạt

động, đó chính là việc “thiếu chính sách −u tiên để khuyến khích các cơ sở chế biến chất thải tiếp tục phân loại rác khô và rác ẩm −ớt, các vấn đề nảy sinh trong việc nắm bắt tiêu chuẩn về chất l−ợng của chất thải theo yêu cầu, và thiếu năng lực tiếp thị sản phẩm với mức giá đủ để đem lại lợi nhuận” (Puredy, 2002). Lardinois và Marchand (2000) nghiên cứu vấn đề rất sâu và sau khi đã kiểm tra bằng chứng ở các thành phố Bangalore, Kathmandu và Manila, hai ông cho rằng các xí nghiệp chế biến phân compost nhỏ không sản xuất đủ l−ợng phân compost để đứng vững trên thị trường, hơn nữa cũng không làm giảm đáng kể lượng rác thải phải đem tiêu huỷ ở các bãi chôn lấp.

Tuy nhiên, một số cơ sở chế biến phân compost theo h−ớng phân cấp với quy mô nhỏ hơn đã chứng tỏ khả năng vững vàng về tài chính của mình. Vấn đề Chất thải, nghiên cứu đ−ợc dựa trên tổ chức phi chính phủ ở Dhaka, Bangladesh, đã khởi xướng một dự án thử nghiệm vào năm 1995 về lồng ghép hoạt động chế biến phân compost theo hướng phân cấp dựa vào cộng đồng với công tác thu gom lần một các chất thải rắn và đã chứng tỏ được rằng sáng kiến chế biến phân compost theo hướng phân cấp có nhiều khả năng thành công nếu đ−ợc lên kế hoạch hợp lý, tài trợ đầy

đủ, và đ−ợc sự trợ giúp của chính phủ (Enayetullah, I. Và M. Sinha, 1999).

9.2.5 Các dự án chế biến phân compost ở Viêng-chăn

Năm 2003, dự án Kinh tế chất thải kết hợp với Hội Đồng Khoa học Quốc gia ở Viêng-chăn đã khởi xướng một nghiên cứu để xác định tính khả thi của việc chế phân compost từ rác thải gom ngoài chợ. Dự án này tập trung chủ yếu vào 3 chợ lớn của thành phố là Thongkhankham, Khuadin và That Luang.

Một phần của tài liệu GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ TỔNG HỢP CHẤT THẢI (Trang 191 - 200)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(446 trang)