Lý thuyết bộ ba bất khả thi cũng như thực tế cho thấy tác động của tự do hóa tài chính đối với lạm phát sẽ phụ thuộc vào khả năng Chính phủ có thể thực thi một chính sách tiền tệ độc lập hay không. Với hầu hết các quốc gia, độc lập tiền tệ cũng có nghĩa là khả năng độc lập trong việc điều hành chính sách của ngân hàng trung ương.
Theo nghiên cứu của luận án trên mẫu quan sát gồm 10 nước Châu Á, mặc dù mức độ độc lập tiền tệ đạt được là tương đối thấp, nhưng nếu tính cho giai đoạn 2008 – 2012, hầu hết các quốc gia này đều đã có sự gia tăng trong chỉ số MI so với giai đoạn trước đó (ngoại trừ Malaysia). Hình 2.10 thể hiện xu hướng này một cách rõ n t trên các đồ thị kim cương. Kết quả đó cũng phù hợp với lựa chọn của đa số các quốc gia trên thế giới trong hơn hai thập kỷ qua, mặc dù độc lập tiền tệ hay lợi ích thực sự của một ngân hàng trung ương độc lập cho đến nay vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế học.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, các kết quả thực nghiệm của luận án chỉ ra rằng, đối với Việt Nam, gia tăng mức độ độc lập tiền tệ có tác động tích cực trong việc làm giảm biến động tăng trưởng, giảm biến động lạm phát. Và do đó, lựa chọn chính sách ưu tiên tăng cường độc lập tiền tệ sẽ phù hợp với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Để gia tăng mức độ độc lập tiền tệ trong điều kiện hiện nay, Việt Nam cần thiết phải nâng cao vai trò, uy tín và mức độ độc lập của ngân hàng trung ương – Ngân hàng nhà nước (NHNN).
Ngân hàng nhà nước Việt Nam hoạt động trên cơ sở Luật NHNN ban hành năm 1997, sửa đổi vào năm 2003, và hiện nay là Luật NHNN mới ban hành năm 2010. Mặc dù đã có nhiều điều chỉnh sau mỗi lần sửa đổi, song về cơ bản, khuôn khổ pháp lý cũng như thực tế hoạt động của NHNN Việt Nam chưa được xác định rõ ràng và còn chịu sự can thiệp toàn diện của Chính phủ. Mức độ độc lập thấp của NHNN đã phần nào làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, đôi khi gây ra chậm trễ trong phản ứng chính sách trước các diễn biến trên thị trường tài chính - tiền tệ. NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan quản lý hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, mà không phải là một định chế đặc biệt có ảnh hưởng lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một quốc gia. Vì vậy, trong những năm tiếp theo, để
“xây dựng NHNN Việt Nam trở thành NHTW hiện đại”43 và nâng cao uy tín, tính độc lập của NHNN Việt Nam trong tiến trình cải cách, những nội dung quan trọng nhất theo đề xuất của luận án bao gồm:
Độc lập về mục tiêu chính sách: NHNN cần được tự chủ trong việc hướng đến mục tiêu tối cao của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả. Mục tiêu này cần được ghi nhận một cách rõ ràng trong Luật, và phải đảm bảo hạn chế việc Chính phủ can thiệp. Theo Luật hiện hành, nhiệm vụ của NHNN được quy định quá nhiều và không xác định được đâu là nhiệm vụ trọng tâm. Vì vậy, phân định rõ mục tiêu cốt lõi và các mục tiêu đạt được kèm theo sẽ tạo điều kiện cho NHNN phát huy tối đa tính tự chủ của mình trong các quyết định thực thi chính sách và lựa chọn công cụ điều hành, giúp nâng cao hiệu quả chính sách.
Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình: Các nội dung thảo luận chính và các quyết định về chính sách tiền tệ của NHNN phải được công khai cho công chúng biết, đồng thời NHNN phải có trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch về những kết quả trong quá
43 Lê Xuân Nghĩa (2005). Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương - một nền tảng quan trọng cho hoạt động Ngân hàng Trung ương hiện đại. Tạp chí Ngân hàng, số Chuyên đề năm 2005.
trình thực thi các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành chính sách tiền tệ và thực hiện các chức năng của ngân hàng trung ương (NHTW). Luật NHNN năm 2010 đã quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Tuy nhiên việc thực thi những quy định trên đòi hỏi năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm của ban lãnh đạo NHNN. Làm tốt điều này cũng đồng thời giúp nâng cao uy tín của NHTW.
Tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Để góp phần nâng cao tính độc lập của NHNN, nhiệm kỳ của ban lãnh đạo NHNN có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc tăng tỷ lệ tái bổ nhiệm các chức vụ trong ban lãnh đạo. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Việc điều hành và thực hiện các mục tiêu của Thống đốc sẽ không bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ. Khi gia tăng tỷ lệ tái bổ nhiệm chức vụ Thống đốc NHNN cũng chính là nâng cao chỉ số độc lập của NHTW (CBI) – đại diện cho mức độ độc lập tiền tệ - như đề xuất của Cukierman và cộng sự (1992).
4.3. Gia tăng tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái
Nếu cơ chế tỷ giá là cố định, đóng vai trò như một cái neo danh nghĩa cho chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ sẽ mất tính độc lập và không đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát hay đối phó với những xáo trộn khi dòng vốn đổ vào lớn. Do đó, khi hội nhập tài chính ngày càng gia tăng, việc cho ph p tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ là lựa chọn thích hợp nhằm tạo điều kiện cho một chính sách tiền tệ độc lập hơn.
Kết quả đo lường mức độ ổn định tỷ giá thực tế của luận án cho thấy có khác biệt đáng kể giữa các nền kinh tế Châu Á trong mẫu quan sát. Với Việt Nam, mặc dù tỷ giá hối đoái đã được điều hành linh hoạt hơn trong những năm gần đây, nhưng chỉ số ER vẫn cao hơn đáng kể so với mức trung bình của các quốc gia quan sát.
Trong khi đó, kết quả phân tích hồi quy qua thời kỳ nghiên cứu cho thấy, nếu Việt Nam gia tăng mức độ ổn định tỷ giá có thể tác động làm tăng biến động tăng trưởng, tăng biến động lạm phát, tăng lạm phát trung bình, nhưng cũng có thể góp phần làm tăng thu nhập trung
bình. Để có thể tiếp tục theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định mà không muốn làm gia tăng bất ổn tăng trưởng và bất ổn lạm phát, ngưỡng dự trữ ngoại hối cần thiết là 30%GDP44. Nếu tính theo GDP năm 2012, con số này tương đương với khoảng 42 tỷ USD. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối thực tế cùng năm 2012 (theo IMF) của Việt Nam chỉ đạt khoảng 25,5 tỷ USD.
Năm 2013, dự trữ ngoại hối ước đạt khoảng 32 tỷ USD nhưng cũng chỉ tương đương gần 20%GDP. Việc đạt tới ngưỡng 30% là một yêu cầu khó có thể đáp ứng ngay trong một vài năm tới.
Vì vậy, để hướng về mục tiêu ổn định nền kinh tế hơn là chỉ nhằm tăng thu nhập, việc giảm bớt mức độ kiểm soát đối với tỷ giá hối đoái trong thời gian tới nên là lựa chọn của Chính phủ. Điều này có nghĩa là chính sách thiên về ổn định tỷ giá trong nhiều năm qua đã không còn phù hợp trong giai đoạn phát triển hiện nay. Như Frankel (1999) đã nhận định “không có cơ chế tiền tệ nào là tối ưu cho tất cả các quốc gia hay cho tất cả các thời kỳ”. Theo ông, cơ chế tỷ giá thích hợp phải tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của quốc gia, cũng như tùy thuộc vào những yếu tố đặc thù của giai đoạn phát triển.
Việc gia tăng tính linh hoạt cho tỷ giá hối đoái trong thời gian tới sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tăng cường mức độ độc lập tiền tệ và tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, nếu để tỷ giá biến động mạnh theo các lực cung cầu của thị trường lại có thể làm gia tăng rủi ro cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế có mức độ đô la hóa cao như hiện nay và những tín hiệu thị trường đôi khi bị chi phối bởi các lực đầu cơ mà không phản ánh nhu cầu thực sự về ngoại tệ. Do đó, để vẫn đảm bảo tính linh hoạt của tỷ giá và định hướng cho kỳ vọng của thị trường, Ngân hàng nhà nước nên đề ra các biên độ ẩn cho tỷ giá hối đoái bằng những tuyên bố hằng năm về mục tiêu tỷ giá, và bằng mọi cách can thiệp vào thị trường khi cần thiết để bảo vệ cho mục tiêu ấy. Điều này lại đòi hỏi Ngân hàng nhà nước không ngừng củng cố tiềm lực can thiệp, bằng cách tăng cường tích lũy dự trữ ngoại hối cũng như đảm bảo vận hành hiệu quả hoạt động thị trường mở và các công cụ điều tiết cung tiền khác. Việc điều hành tỷ giá theo cách này
44 Theo số liệu từ Bảng 3.4 và 3.10.
đảm bảo chỉ mang tính định hướng, nhưng khi đã thiết lập được niềm tin cho thị trường, sẽ giúp hạn chế những xáo trộn trên thị trường ngoại hối và tự động ổn định tỷ giá hối đoái.