1.2. Khi người Man tộc là chủ nhân của lịch sử
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
Người Man tộc (Barbarians, Barbaros) là những bộ tộc lớn sinh sống bên ngoài đế chế Rome, chủ yếu ở địa bàn tương ứng với phần lớn châu Âu ngày nay (trừ Nam Âu), từ sông Rihne đến tận sông Vistula, từ sông Danube đến biển Baltic. Khi công dân Hy-La cổ đại xây dựng được cho mình một nền văn minh phát triển ở thế giới Địa Trung Hải thì các nhánh Man tộc vẫn sống trong tình trạng công xã nguyên thủy. Trên toàn châu Âu cổ đại (trừ Nam Âu) chỉ là những vùng đất hoang sơ, rừng rậm thiếu vắng thành phố, nhà cửa và cái gọi là văn minh.
Đến giữa thế kỉ IV, sự thiên di ồ ạt của người Hung nô xuống phía Đông của Nam Âu đã làm cho các bộ lạc của người Man tộc hoảng sợ. Họ vội vàng kéo nhau vào sâu trong lãnh thổ Rome để lánh nạn và dần xâm chiếm đất đai của người La Mã. Sự khủng hoảng mọi mặt từ bên trong nền đế chế đã đưa đến một kết cục là người Rome đã bị chính những người Man tộc kém văn minh hơn đánh bại họ. Lịch sử đã gọi sự kiện lớn này là “cuộc thiên di của những người Man tộc” hay “cuộc di chuyển lớn của các dân tộc”. Người Man tộc với những cuộc thiên di ngang dọc của mình đã chia nhỏ đế quốc Rome thành nhiều mảnh vụn mà từ đó, nhiều vương quốc của họ đã ra đời vào các thế kỷ V-VI, chính thức xác lập sự ra đời của Châu Âu. Những người man tộc cổ sơ với trình độ công xã thị tộc thấp kém, tiếp xúc và chinh phục một nền văn minh quá cao so với đời sống thị tộc du mục và bấp bênh của họ nên nhiều giá trị của văn minh Hy-La chói lọi đã không được họ kế thừa. Vì lẽ đó, sau này, vào thời kỳ Phục Hưng, các nhà văn hóa đã nhìn nhận thời kỳ tung hoành và xác lập quyền lực của người Man tộc ở Châu Âu là “Đêm trường trung cổ - Dark Age”.
Với các cuộc thiên di, thành phần tộc người của cư dân phương Tây trung đại trở nên đa dạng hơn rất nhiều lần so với thời cổ đại. Nó không chỉ thuần nhất là những nhánh Man tộc khác nhau ở những địa bàn riêng rẽ mà trải qua hàng trăm năm các tộc người đã
hòa trộn vào nhau và chính họ đã tạo dựng nên các dân tộc châu Âu ngày nay. Một châu Âu mà ta biết đến như ngày nay bắt đầu từ sự sụp đổ của đế chế La Mã và sự thiên di của những người Man tộc. Có thể kể đến một số những tộc người tiêu biểu sau:
Đầu tiên là nhánh những Goths gồm Visigoths và Ostrogoths gắn với vùng hạ lưu sông Đanube và biển Đen. Đây là nhánh phía đông của nhóm Man tộc. Người Visigoths bị người Huns đồn đuổi vào phần phía Đông của đế chế La Mã. Sau khi đánh bại hoàng đế Valens ở Adrianople vào năm 378, họ đã chiếm được một vùng đất bên trong biên giới của đế quốc. Họ đã định cư ở đó nhưng sau vài thập kỷ, họ lại đi tìm những vùng đất giàu có hơn, và với triều đại vua Alaric họ đã tấn công bán đảo Italia. Tây La Mã lúc bấy giờ do hoàng đế Honorios cai trị. Vị vua này không có tài nên việc cai trị phần lớn giao cho Stilicho, một người German, đảm trách. Ông này đã thành công trong việc bảo vệ đất nước chống lại sự xâm lăng của người Visigoth. Năm 408 do những âm mưu chia rẽ trong triều đình, Stilicho bị sát hại. Cái chết của ông và những bất hòa trong nội bộ triều đình sau đó đã là cơ hội cho những người Visigoth thực hiện ý đồ xâm lăng lần nữa. Họ đã chinh phục Italy, chiếm La Mã vào năm 410 và đã có thể thành lập vương quốc Man tộc đầu tiên ở nước này nếu như vua Alaric không băng hà. Bị mất người lãnh đạo, những người Visigoths đành phải rút về phía Nam xứ Gaul theo như những điều khoản mà họ đã ký kết với với đế quốc Tây La Mã. Ở đó họ đã thiết lập một vương quốc của chính họ và mở rộng xuống cả bán đảo Iberia đẩy người Suevi về phía Tây Bắc bán đảo này. Như vậy, người Visigoths đã trở thành một phần tộc người của dân tộc Pháp, Tây Ban Nha ngày nay. Còn người Suevi sẽ tham gia vào các tộc chủ thể của người Bồ Đào Nha.
Những người Ostrogoths thiên di muộn hơn. Nửa cuối thế kỉ V để tránh nạn đói đe dọa họ đã di cư sang Italy. Năm 493 họ tấn công Raven, kinh đô của các hoàng đế cuối cùng của Tây Rome và chinh phục được bán đảo Italy. Dù không đi xa như người Visigoths nhưng chắc rằng những người Ostrogoths cũng trở thành một phần dân cư của Italy ngày nay.
Nhánh man tộc thứ hai nằm ở thượng lưu sông Danube gồm có những người Vandals, Lombards, Burgundies. Trong nhóm này những người Vandals di chuyển sớm nhất và họ cũng là tộc người di chuyển dài nhất. Đầu tiên họ tràn qua xứ Gaul. Do bị người Visigoths dồn đuổi họ phải xuống bán đảo Iberich. Sau đó, khi vương quốc Visigoths mở rộng những người Vandals phải vượt eo Gibranta đến và định cư ở Bắc Phi vào năm 439.
Từ Bắc Phi họ đã đi thuyền lên vùng Địa Trung Hải, cướp phá Sicile và Rome năm 455.
Như vậy thành phần dân tộc ở một số nước châu Âu ngày nay không thể không có sự pha trộn với người Vandals.
Những người Burgundies thì di chuyển xuống vùng Đông nam xứ Gaul (Pháp sau này) vào khoảng những năm 30 của thế kỉ V. Năm 457 họ thành lập vương quốc Burgundi, đóng đô ở Lyon. Quốc gia của họ tồn tại không đầy một thế kỉ do bị vương quốc Frank thôn tính. Dù vậy, cho đến tận ngày nay vùng Lyon của Pháp vẫn nói tiếng Burgundi.
Trong lúc đó, vào năm 568, người Lombards từ vùng trung và thượng lưu sông Danube đã thiên di xuống phía nam và chinh phục được miền Bắc và một phần miền Trung Italy, dựng nên quốc gia của mình tại đây, đóng đô ở Bavie. Lúc này, ở miền trung bán đảo Ý vẫn có mặt của khu giáo hoàng. Đến thế kỉ VIII, vua Lombards có mưu đồ quản lí cả lãnh địa của giáo hoàng nên giáo hoàng đã dựa vào thế lực của vương quốc Frank, vương quốc của người Lombards đã bị đánh bại. Và như thế, cư dân trên vùng đất chiếc ủng ngày nay lại có thêm một nguồn xuất phát – những người Lombards.
Nhánh lớn thứ ba của người Man tộc là nhánh nằm gần vùng biển Bắc gồm có người Angles, Saxons và người Jutes. Người Angles và Saxons từ những bờ biển phía Bắc di cư xuống vùng Flanders và sang đảo Britain vào giữa thế kỉ thứ V. Tại đảo Britain họ đã đồn đuổi những cư dân Britains bản địa (Celts) lùi sâu về phía Tây của đảo (Scotland, xứ Wales ngày nay) cũng như buộc họ phải tràn qua đảo Ireland. Các tộc người mới đến đã nhanh chóng thiết lập các vương quốc của mình ở nửa phía Đông còn lại của đảo Britain.
Đến thế kỉ VII người Angles định cư chủ yếu ở phía Đông Bắc, người Saxons ở phía Đông Nam còn người Jutes chỉ ở một phần rất nhỏ len lỏi với người Saxons. Như vậy, những tộc người này đã trở thành tộc chủ thể trong thành phần của người Anh ngày nay còn vùng Scotland, Ireland và xứ Wales tộc chủ thể chính là người Celts.
Ngoài ra cũng cần phải nhắc đến người Franks, bộ tộc đã đặt tên cho nước Pháp ngày nay. Từ thế kỉ III họ vượt sông Rhine tràn vào xứ Gaul. Đến thế kỉ thứ V, người Franks do thủ lĩnh Clovis cầm đầu đã chinh phục miền bắc xứ Gaul, sau khi đánh bại một đạo quân La Mã ở Soissons vào năm 486. Sau đó, Clovis, một vị vua bạo ngược nhưng có tài chỉ huy, đã tiếp tục mở rộng sự cai trị của ông ra trên toàn lãnh thổ. Các vị vua sau đó của vương quốc Frank cũng đã không ngừng gây ra những cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi. Đặc biệt là đến triều vua Charlesmagne, sau nhiều cuộc chinh chiến đẫm máu kéo dài, lãnh thổ của vương quốc Frank được mở rộng tương đương đế chế Tây La Mã trước đây, từ phía tây Đại tây dương đến phía đông ở vùng sông Elbe, Danube, từ Nam Ý ở phía nam đến
Bắc hải và biển Baltic phía bắc. Nhưng sau khi Charlesmagne băng hà, trong nội bộ triều đình xảy ra những tranh chấp quyền lực. Đến thời cháu của vua Charlesmagne, đế quốc này bị phân chia làm ba phần theo hiệp ước Verdun (843): (1) vùng trung du và bắc France kéo dài về phía đông đến sông Meuse, (2) vùng trung và nam Germany từ phía đông sông Rhine và (3) là vùng trung gian chạy dài về phía bắc đến Netherlands và phía nam đến Italy. Hiệp ước Verdun đã dẫn đến sự ra đời của nhiều nước trong đó có ba nước lớn cuả châu Âu ngày nay: Pháp, Đức, Italy.
Trong các thế kỉ IX và X, cư dân châu Âu đón nhận thêm những tộc người mới – người Muslim, Slav, Magyar, Viking. Người Muslim Hồi giáo từ châu Phi tấn công khắp rìa Địa Trung Hải. Người Slav từ phía Đông tăng cường thâm nhập vào trung tâm châu Âu.
Người Magyar định cư ở Hungary ngày nay cũng đến và cướp bóc châu Âu trong hơn 50 năm trước khi bị đánh bại. Người Viking sống ở bán đảo Scandinavi ngày nay và từ thế kỉ IX họ liên tục xâm lấn xuống châu Âu. Tại đảo Anh, người Viking định cư chủ yếu ở miền Bắc và Đông xứ Anh, Bắc Scotland, đảo nhỏ Man và Ireland. Ở Ireland họ tàn phá nhiều tu viện và lập ra các đô thị đầu tiên. Tại Pháp, người Viking định cư ở vùng đất Normandy do vua Pháp ban cho vào năm 911 để họ khỏi cướp bóc. Người Viking cũng định cư ở Iceland, một số tới tận Greenland và Bắc Mỹ. Một số khác tiến vào vùng Địa Trung Hải, tấn công Tây Ban Nha, miền Nam nước Pháp, Italy và Byzantine và làm cả lính đánh thuê cho người Byzantine. Người Viking Thụy Điển chiếm cứ vùng biển Baltic, xây dựng các đô thị buôn bán như Visby, Kiev và Novgorod. Đi thuyền xuôi theo các con sông ở Nga, họ gặp các thương gia Bulgari, Khazar, Byzantine và Arập. Đến năm 1000, người Viking bắt đầu định cư và quê hương Bắc Âu của họ đã trở thành những nước theo đạo Ki-tô. Họ đã có ảnh hưởng lớn đến tương lai của Bắc Âu thông qua việc thành lập các tuyến đường buôn bán và các đô thị, tạo lập nước Nga, có ảnh hưởng tới Pháp, Hà Lan, Ba Lan, Anh và Ireland, làm suy yếu đế quốc Carolingian. Hậu duệ của họ là người Normandy, có thế lực rất mạnh ở châu Âu.
Cũng chính từ các cuộc thiên di và định cư của những người Man tộc, địa bàn trung tâm của phương Tây trung đại đã dịch chuyển so với thời cổ đại. Nếu như thời kì cổ đại sự phát triển lịch sử chủ yếu của phương Tây tập trung ở Balkan và Italy. Ở khu vực Balkan tức là thuộc các nước như Hy Lạp, Macedonia, một phần rất nhỏ của Bulgaria ngày nay hay là rìa biên giới Rumani ngày nay. Ở Italy là trọn vẹn bán đảo Ý. Bước sang thời kì đế chế đến khi Tây Rome diệt vong khu vực phát triển của châu Âu đã thuộc về bán đảo Balkan,
bán đảo Italy, phần lớn lãnh thổ Frank ngày nay, một phần nhỏ của biên giới phía Nam cộng hòa Liên Bang Đức ngày nay (chủ yếu ở bang Bavaria) và Áo, bán đảo Iberia và đảo lớn của quần đảo Britain.
Và từ khi thời trung đại bắt đầu vào những thế kỉ V-VI trở đi, địa bàn phát triển của phương Tây trung đại đã mở rộng ra toàn bộ vùng Tây Âu bao gồm khu vực cũ của đế chế Rome và mở rộng ra toàn bộ quần đảo Britain, toàn bộ phần phía Tây của châu Âu trong đó có cả những khu vực mà thời kì trước chưa phát triển. Ví dụ như vùng các nước Đức, Đan Mạch, một phần của các nước Bắc Âu thuộc Thụy Điển, Nauy, Phần Lan ngày nay trong thời kì cổ đại hầu như không có điểm gì nổi bật nhưng bước sang thời kì trung đại đã phát triển hết sức rực rỡ. Những vùng đất như Poland, Hungary, Romenia, Ukraine, Belarus…
tức vùng Đông Âu bước sang thời kì trung đại cũng không có nhiều nét đặc sắc. Tựu chung lại, thời kì trung đại tập trung ở Tây và Nam Âu về mặt địa lý nhưng trung tâm của lịch sử trung đại phương Tây thì nghiên về Tây Âu được tính từ bán đảo Italy đổ ra bán đảo Iberia.
Và như vậy khi nghiên cứu về giai đoạn trung đại ở phương Tây thì các nhà nghiên cứu sẽ tập trung chủ yếu ở Tây Âu, quá trình hình thành châu Âu cũng được tham chiếu từ Tây Âu.
Trong đó, lịch sử phương Tây trung đại sẽ tập trung vào những nước như Pháp, Đức, Italy.
Cái rốn của lịch sử Tây Âu sẽ nằm trong biên giới ba nước này cũng như đảo Britain và vùng Iberia.
Với sự dịch chuyển địa bàn mà Tây Âu giờ đây là trung tâm, điều kiện tự nhiên của phương Tây trung đại sẽ không thể tương đồng so với phương Tây cổ đại. Các nước Tây Âu có những vùng đất rộng lớn, màu mỡ thuận lợi cho việc trồng lúa mì, chăn nuôi gia súc.
Kinh tế nông nghiệp thực sự chiếm ưu thế trong thời kì này đặc biệt là ở giai đoạn đầu. Nền kinh tế hàng hóa công thương nghiệp của thời Hy-La cổ đại không còn giữ vị trí trung tâm mà phải mất một thời gian dài gần cuối thời kì trung cổ mới có sức sống trở lại. Điều kiện tự nhiên đã đưa kinh tế nông nghiệp lên hàng chủ đạo và từ đó nền chính trị được lập ra cũng không thể có tính chất tương đồng với bộ máy nhà nước của Hy-La cổ đại được. Đời sống của con người gắn chặt với mảnh đất canh tác, đất đai dần tập trung trong tay những thế lực giàu có và từ đó chế độ phong kiến ra đời. Những xã hội công dân Hy-La với quyền tự do trong tư tưởng, suy nghĩ nhường chỗ cho những tư tưởng bị hạn chế bởi nhiều yếu tố trong đó có sự bất động trong kinh tế, chính trị và tôn giáo. Trình độ thấp kém của người Man tộc cùng với trạng thái tĩnh trong cuộc sống càng làm cho sự phát triển của văn minh bị cản trở.
Tóm lại, những thay đổi về tộc người, địa bàn, điều kiện tự nhiên… của phương Tây trung đại đã đưa đến những thay đổi về cấu trúc đời sống văn hóa so với phương Tây cổ đại.