CHƯƠNG 3: NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN PHƯƠNG TÂY CUỐI THỜI TRUNG CỔ (THẾ KỈ XIV-XV)
3.2. Nh ững chuyển biến trong đời sống
3.2.1. Sự phát triển của phố xá và các phường hội, thương hội
Thời kì này, các thành thị trở nên vô cùng đông đúc, hầu hết những người thợ thủ công bậc thầy có xưởng của họ ở tầng dưới cùng của ngôi nhà. Nó còn có chức năng như một cửa hàng và sản phẩm hoàn thành sẽ được trưng bày trên một cái kệ ở đằng trước. Vào buổi tối, những cánh cửa được kéo xuống để giữ an toàn. Người chủ cửa hiệu cũng xây một phòng chứa đồ ở phía sau, ông và gia đình sống ở tầng trên. Trong một công trình được xây ở thế kỉ XV, người ta thấy căn nhà được chia làm hai cửa hàng ở tầng trệt. Nhưng chỉ có một cửa hàng có lối lên tầng trên, điều đó có nghĩa là một cửa hàng bên dưới có thể được cho thuê để kinh doanh một mặt hàng khác [61; Tr. 49].
Những người thợ thủ công như là những người thợ giày, mũ… làm việc khi cửa sổ được mở ra ngoài đường phố, điều này cho họ cơ hội phô diễn những kĩ năng với các khách qua lại. Tên gọi “cordwainer” dùng để chỉ những người thợ đóng giày, xuất hiện sau khi những đôi giày da tuyệt vời nhất ra đời ở Cordoba – Tây Ban Nha. Giày mũi dài được ưa chuộng vào cuối thế kỉ XIV và được bán cho các thương nhân giàu có hay cư dân thành thị.
Những dụng cụ dùng để làm giày có các dao chuyên dùng để cắt da như dao lưỡi hình bán nguyệt, dao lưỡi hình rừu có mũi nhọn để có thể tạo ra những cái lỗ trên da để khâu giày cho thuận lợi hơn vì da cứng hơn vải. Đế giày được làm bằng da, loại dẻo dai. Phần trên của giày làm bằng da dê, loại da này rất bền và linh động. Nối phần trên và đế là một loại chỉ
làm bằng sợi lanh và sáp. Họ khâu một bên trước và sau khi xong đổi qua bên còn lại đến khi hoàn thành.
Ngôi nhà của những thương nhân giàu có hay các quý tộc được nâng cấp lên với nhiều vật dụng hơn. Nhà được chia thành nhiều phòng với những chức năng riêng biệt hơn.
Họ ưa chuộng những vật dụng xa sỉ đến từ phương Đông như ngà voi, đồ chạm khắc bằng vàng, bạc tinh sảo, các tác phẩm nghệ thuật. Nhiều thương nhân có phòng làm việc riêng.
Nơi đó cũng có thể là phòng khách. Trên bàn làm việc của họ luôn có những cây nến nhỏ được dùng cho việc làm tan chảy sáp từ các con dấu niêm phong trên các lá thư và tư liệu, các loại sổ thu chi, viết, con dấu…. Các thương nhân trong thế kỉ XIV ở Florence đã phát triển một hệ thống sổ hai chiều. Mỗi vụ buôn bán được ghi lại trong hai cuốn sổ - một cho tín dụng đang có và một cho ghi nợ. Số lượng tiền ở hai cuốn sổ này phải luôn cân bằng với nhau. Những chiếc ví và túi đựng tiền được để trong một số tủ nhỏ. Vào cuối thế kỉ XV, người ta gắn thêm những cái khung nhỏ trên túi, cái khung này có lỗ để người ta có thể treo túi vào những cây đinh đóng trên tường, hay những nơi có thể treo được. Những hộp dựng tiền được trang trí tỉ mỉ với nhiều hình chạm khắc. Những chiếc chìa khóa thế kỉ XIV được làm công phu, nhiều kiểu để khóa những đồ vật giá trị.
Phòng ngủ cũng được làm cầu kì hơn với những chiếc giường bằng gỗ, to, chắc và có màn trướng treo trước giường. Những tấm màn có nhiều màu sắc và hoa văn trang trí. Ở những mặt còn lại trên chiếc giường còn có các màn len để mùa lạnh được kéo ra và giữ ấm, ngăn gió. Những người giàu có còn có cả những chiếc nệm nhồi lông còn hầu hết mọi người vẫn ngủ trên nệm nhồi rơm. Khi những tấm màn được kéo ra, chiếc giường trở nên ấm cúng, riêng tư và ngăn được côn trùng. Một cuốn sách của một quản gia ở thế kỷ XV có ghi lại một đoạn về giờ ngủ của lãnh chúa: “Sau khi lãnh chúa cởi quần áo, chải đầu và đội mũ ngủ. Người quản gia sẽ kéo rèm ngủ xung quanh giường, đặt một ngọn nến đêm, xua chó và mèo ra ngoài, đưa cho vị lãnh chúa một cái khăn, không cần xin phép chủ chỉ cần cúi đầu chào và đi nghỉ” [61; Tr. 17].
Vào những năm 1400 nhiều người cố gắng làm những ống khói bằng gạch và từ đó, những đường dẫn bằng gạch trong nhà trở nên thông thường. Vào cuối thế kỷ XV nhiều nhà có những căn phòng riêng tư, bí mật. Nó như một cái tủ nhỏ trong tường với một cái lỗ bên trên. Cũng có một cánh cửa bên ngoài dẫn đến hố phân (hầm chứa phân). Phòng tắm xuất hiện nhiều nhưng còn đơn sơ. Khi tắm người ta cởi trần, đứng trước một xô nước. Dân thành thị và nhà giàu cũng biết cái thú tắm rửa, mà ở tu viện chỉ dành cho người ốm và
người đang dưỡng sức sau khi trích máu ba ngày. Người ta hưởng thú này trong những chiếc chậu gỗ lớn, lúc khác dùng để giặt quần áo. Đáy chậu được lót một lược vải đề phòng rằm gỗ làm xước da. Một số người do thiếu thốn phải thực hiện tắm hơi bằng cách tương tự cách tắm hơi (sauna) của Phần Lan. Họ dùng những viên ngói hoặc đá được nung nóng, cháy bỏng, rồi đặt dưới đáy chậu gỗ, bên trên có một đáy thứ hai đục nhiều lỗ rồi tưới nước lên. Người tắm cuốn chăn kín người để khỏi bị bỏng, ngồi vào trong chậu cho đến khi ra mồi hôi đầm đìa.
Trong thành thị, giờ đây các phường hội xuất hiện ngày một nhiều. Nếu như ở Paris vào các thế kỉ XII, XIII chỉ có khoảng 78 phường hội thì bước vào thế kỉ XIV đã có hơn 300 phường hội. Mỗi phường hội đều có những biểu tượng đặc trưng và được treo ngay bên ngoài. Biểu tượng của phường hội làm áo giáp là hình vẽ một chiếc áo ở giữa, một thanh kiếm dài và một con dao ở hai bên. Những người thợ đóng giày có hình biểu tượng là đế giày, dao cắt da, kim. Phường làm bánh thì có biểu tượng là thùng gỗ đựng bánh, phía sau là một cây móc và xẻng vắt chéo. Hoạt động của phường hội được tổ chức một cách quy củ, sản phẩm làm ra ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng. Các phường hội làm áo giáp kim loại vẫn duy trì tiêu chuẩn về kiểu dáng và chất lượng của áo giáp. Gần Milan ở Italy, một trong những trung tâm làm áo giáp ở thế kỉ XV, hầu như những dân làng ở đây đều được thuê để làm áo giáp. Họ làm áo giáp kim loại, các nón bằng xích với miếng bảo vệ miệng. Những nón xích này đội lên đầu bên dưới mũ sắt hay đội không để bảo vệ đầu và mặt của người lính khỏi bị kiếm chém. Ngoài ra cũng có cả những bộ giáp xích. Để làm được các móc xích móc vào nhau, họ làm hàng loạt các cây xoắn như lò xo, sau đó dùng kìm cắt ra thành từng vòng. Mỗi vòng được làm dẹt và nối với nhau bằng một chiếc đinh tán. Có thể thấy làm áo giáp là một quá trình kết hợp khéo léo giữa kĩ năng và sự cần cù của người thợ. Mỗi chiếc vòng nhỏ như một chiếc nhẫn ở trên được nối với bốn cái khác và được giữ với nhau bằng một đinh tán nhỏ. Cả bộ áo giáp có thể được làm từ hàng ngàn chiếc vòng nhỏ. Những phường hội may mặc giống như một ngành công nghiệp khổng lồ với sự thuê mướn một lực lượng lớn gồm có những người thợ chải len, cắt lông cừu, thợ dệt (những người làm sạch và tạo ra vải), thợ may… Để có màu sắc, vải còn được nhuộm bởi những người thợ nhuộm trong những chiếc thùng to với nhiệt độ cao. Người thợ sẽ tạo hỗn hợp phẩm nhuộm, làm nóng nó và cho vải vào. Họ sẽ dùng những cây gỗ lớn để nhúng và quấy vải cho đều màu rồi vớt nó ra. Sau đó, vải sẽ được phơi khô.
Những phường hội giàu có thường sở hữu cho mình một phòng họp lớn hay một căn nhà lớn để hội họp. Nơi đây trưng bày những biểu tượng của phường hội và các thành viên tụ họp để tham gia các buổi tiệc như tiệc mừng, tiệc kỉ niệm vị thánh bảo trợ của họ…
Ngoài ra, tòa án phường hội cũng được lập ra ở đây để dàn xếp các cuộc tranh cãi hay trừng phạt các thành viên đã phá luật.
Để đạt được vị trí cao trong một phường hội, một cá nhân phải trải qua quá trình lâu dài và khó nhọc. Trước tiên là trở thành thợ học việc. Anh ta sẽ phải trả một khoản tiền lớn để bắt đầu và thời gian học thường kéo dài khoảng 7 năm. Trong suốt khoảng thời gian đó, anh sẽ học từ một người thầy ở lĩnh vực nghề của mình. Sau đó, anh ta sẽ trở thành một người thợ thạo việc và được đi làm thuê để nhận tiền lương hàng ngày. Một người thợ thạo việc có thể trở thành thợ thầy nếu anh ta trả một khoản phí. Anh ta cũng cần làm ra một tác phẩm kiệt xuất được thầy và mọi người đánh giá cao.
Thời kì này, tại hầu hết các thành thị lớn, chợ phiên được tổ chức hàng tuần bên cạnh những hội chợ lớn. Những người bán hàng rong, thương nhân, những người chăn vật nuôi như cừu lợn, gia súc như bò, và ngay cả ngỗng đều lùa chúng đến để bán tại chợ.
Những quầy hàng bán nhiều hàng hóa được sắp xếp cẩn thận từ phô mai, trứng, muối cho tới những chiếc nồi và chảo, công cụ, dao, giày và quần áo... Dưới đây là hình ảnh một quầy hàng bán đồ da tại một chợ vào những thế kỉ XIV – XV.
Cửa hàng được dựng bằng những khung gỗ. Một khung đằng sau nối với hai chân chống đằng trước.. Trên hai chân có các lỗ để chống hai cây đỡ phần mái. Phần mái cũng bằng khung gỗ. Cấu trúc này rất đơn giản và tiện lợi, có thể gập lại để đem đi. Để chắn gió và che nắng, mưa, người ta phủ lên mái và khung đằng sau một hay hai tấm vải bạt lớn.
Trên khung gỗ, người ta treo các hàng hóa để bán. Các đôi giày, guốc đế gỗ quai da để đi mưa hay bùn được treo lên ngay trung tâm. Những bình da để đựng rượu, nước được treo trên mái, bên dưới là những cốc vại bằng da. Vắt lên kệ là các tấm da dê đủ màu để làm giày. Một cuộn da thú lớn để làm đế giày được dựng ở góc quầy, không thể vắt nó lên như những tấm da dê vì nó khá dày và nặng. Trong cửa hàng đơn giản này còn có những cái ghế gỗ để trưng hàng hoặc để người bán ngồi, cũng như để lấy những đồ treo trên cao. Tại đây cũng có các đôi giày gỗ và kim loại để tạo hình. Các lọ, chai da đơn giản hơn treo dưới thấp.
Ở dưới đất còn có những đống da thừa sau khi đã cắt để làm giày và vài đôi giày cũ đang chờ sửa lại.
Với các hội chợ, chợ phiên, hoạt động của các thương hội phát triển mạnh, các thương nhân cũng ngày càng củng cố vị trí của mình. Liên minh Hanseatic được thành lập vào thế kỉ XIII với mục đích giúp các thương đoàn tránh khỏi việc bị cướp bởi hải tặc và bọn cướp trên bộ cũng như đạt được quyền kiểm soát chủ yếu với buôn bán bên ngoài. Liên minh này ngày càng phát triển mạnh mẽ đến năm 1400 nó đã có nhiều trụ sở ở 160 thành thị phía Bắc châu Âu.
Các ngân hàng cũng là một phần quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nhiều nhà băng được xây dựng ở nhiều nơi. Ban đầu chỉ là những căn phòng nhỏ nhưng sau đã có những trụ sở riêng cho nó. Tại đây người ta trang bị nhiều chiếc ghế dài, bàn để trao đổi tiền hay mượn nợ, trả nợ.
Vào cuối thế kỉ XV, những thương nhân giàu có bắt đầu kiểm soát tất cả công việc của phường hội. Họ mua những vật liệu thô và bán sản phẩm đã hoàn thành. Họ quan tâm nhiều hơn đến việc kiếm lợi nhuận, bảo đảm phúc lợi cho những thợ thủ công nghèo ngày một suy giảm. Tầng lớp này còn ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề chung của thành thị, là những người có tiếng nói cuối cùng trong việc bầu cử các thị trưởng ở thành thị.