CHƯƠNG 2: SỰ TRỞ LẠI CỦA ĐỜI SỐNG THÀNH THỊ (THẾ KỈ XI - XIII)
2.2. Đời sống văn hóa của cư dân phương Tây trong các thế kỉ XI - XIII
2.2.1. Đời sống thành thị
2.2.1.1. Quang cảnh thành thị và nhà cửa bên trong nó
Những thành thị trung đại ở Tây Âu khi mới hình thành còn rất thô sơ, trên những địa điểm thuận lợi như kinh đô của vua, thành lũy của lãnh chúa hay những thành phố cổ của Rome… Để bảo vệ dân cư trong thành người ta dựng bên ngoài thành một lớp bảo vệ.
Ban đầu là các hào, rãnh sâu, tường thành bằng gạch, gỗ sau nhiều nơi đã xây tường thành bằng đá, tạo sự kiên cố. Tường thành là một dấu hiệu chứng tỏ vùng đất này đã không còn là nông thôn nữa mà thay vào đó là một thị trấn [70]. Nó cũng cho thấy rằng thị dân đã trở thành những người tự do và giàu có hơn trước bởi họ có nhiều tiền để xây một bức tường rất rộng và chắc chắn bao quanh thị trấn của họ [74]. Không có nhiều lối ra vào thành thị, chỉ có một số cổng lớn nhất định để có thể thu đủ lệ phí của những thương nhân và lữ khách đi vào thành thị cũng như ngăn nông nô đang ồ ạt đổ về. Không được ở bên trong, những con người đến sau phải định cư bên ngoài các tường thành và phải xây một lớp tường khác bao xung quanh. Cứ thế khi cư dân ở đây trở nên đông đúc thì người ta lại chuyển ra ngoài và xây thêm một lớp tường thành khác. Những khu này được gọi là “ngoại ô” xuất phát từ tiếng Latinh “suburbs” nghĩa là “bên dưới thành phố” còn đô thị được gọi là “urban” [35;
Tr. 372]. Người ta cũng dựng những ngọn tháp cao tại những điểm nhất định dọc theo tường thành để quan sát xung quanh, phòng khi có trộm cướp hoặc chiến tranh. Tại San Gimignano ở Tuscany vùng Trung Ý hơn 70 tháp phòng thủ được dựng lên thẳng đứng
trong thế kỉ XII. Những ngọn tháp mọc lên ngày càng nhiều về sau mặc dù hầu hết hội đồng thành thị không cho phép xây dựng bất cứ công trình nào cao hơn tòa thị chính.
Với chức năng chính là trung tâm đầu tiên và trước nhất của thương mại, thành thị luôn là nơi sôi động với các con đường, các cửa tiệm đông đúc và náo nhiệt. Những cánh cổng được mở lúc hoàng hôn và được đóng lúc chạng vạng tối. Các thành phố thường được xây dựng không theo quy củ như ngày nay, khi quan sát chúng ta lại thấy độc đáo, cổ kính.
Dường như người ta đã không nghiên cứu một cách hệ thống tuy đã chú ý đến thiết kế.
Nguyên nhân có thể là do dân cư đổ về quá nhiều và các nhà kiến trúc đô thị thời ấy – thực ra chỉ là thợ đo đạc. So với các thành phố của La Mã về mặt kỹ thuật xây dựng, quy hoạch nhà cửa… nhiều thành thị trong thời kì này chưa sánh bằng.
Quy mô của thành thị kém xa các lãnh địa rộng lớn, không gian bị hạn chế, giá đất cao, thay vì xây những ngôi nhà lớn người ta phải xây những ngôi nhà sát nhau. Để làm cho không gian nhà rộng hơn, người ta thường xây các tầng trên của ngôi nhà nhô ra ngoài. Ở nhiều nơi, phần trên các ngôi nhà đối diện nhau như chạm vào nhau thậm chí người bên này có thể với tay sang cửa số nhà đối diện, việc di chuyển vì thế cũng rất khó khăn. Tối tăm và ngột ngạt là những nhận xét chung khi miêu tả về thành thị trung đại ở Tây Âu.
Đối với thợ thủ công, ngôi nhà có thể có một phòng ở tầng trệt làm xưởng thợ hoặc cửa hàng, đôi khi ở phía sau nhà, cùng với lò sưởi có một gian làm bếp và phòng ăn. Một số nhà cũng có thêm một tầng hầm. Người ta cũng có thể làm việc ở tầng trên và nếu vậy tầng này thường nối thẳng với đường phố bằng một cầu thang thẳng đứng. Các tầng trên nữa là gác kho hay những phòng nhỏ đi lên bằng cầu thang bên trong thông với phòng lớn hoặc bằng một cầu thang xoắn ốc đi xuống sân sau. Toàn bộ sơ đồ là một hình chữ nhật mà cạnh bé nhất chính là phố. Do đó có thành ngữ “nhà mặt phố”. Bề mặt ngoài các ngôi nhà, lán gỗ, lều ở chợ thường được đánh dấu bằng một tấm biển có biểu tượng bằng sắt hình tượng thánh hoặc con vật, dụng cụ hay một cảnh thành kính. Người ta sống tại “hình Đức Bà”
hoặc tại “hiệu Ngựa Trắng”, đó là địa chỉ lúc bấy giờ. Nhiều cửa hàng cũng đã quảng cáo hàng hóa của họ bằng cách treo bên ngoài những biểu tượng của cửa hàng. Một ổ bánh mì được treo trước cửa tiệm bánh, một cái chậu cho một cửa tiệm cắt tóc. Và khi có một số người biết đọc chữ, những người bán còn gắn thêm một vài chữ biểu thị tên quầy hàng của mình. Ở một vài thành thị thời kì này, những cửa tiệm kinh doanh giống nhau có mặt trên cùng một con đường. Các cửa tiệm giày có nhiều ở Ghoe Lane, thợ may trên đường Threadneedle, những người bán cá tụ tập ở Rue de la Poissonerie và rất nhiều chỗ khác.
Những thương nhân sớm nhất ở thời trung đại Tây Âu là những người bán hàng rong ở các làng và thị trấn. Vào thế kỉ XII, châu Âu phát triển giàu có hơn và nhiều sản phẩm được tạo ra. Những thương nhân dần không tiến hành những chuyến đi đơn giản và không còn là những nhà phiêu lưu nữa. Họ trở thành những người buôn bán, người chủ và sở hữu chính con tàu của họ. Họ tạo nên một mạng lưới buôn bán khắp các thành phố châu Âu. Nhà của các thương nhân này cũng khá giả hơn rất nhiều. Một số nhà có những tấm thảm để thay đổi khung cảnh, chứng tỏ sự giàu có. Mùa đông, thảm giúp ngăn gió lùa và thêm vào đó nó giống như các bình phong của người Nhật, cho phép chia phòng lớn thành nhiều phòng nhỏ. Tuy nhiên đến tận thế kỷ XIII, thảm vẫn rất hiếm, chỉ thuộc những nhà quyền quý còn lại người ta dùng vải lanh màu sắc hay quần áo len để treo tường và các ô cửa. Cũng giống như thảm treo, chúng làm căn phòng ấm hơn cũng như mang đến sự kín đáo. Nó còn giúp tăng thêm ánh sáng cho bên trong tối lờ mờ. Những ngôi nhà giàu có cũng có nhiều phòng hơn. Cạnh phòng lớn sẽ là nơi cất quần áo. Những người nghiên cứu có phòng đọc sách. Mỗi tòa lâu đài có một nhà thờ riêng, nhà nhỏ hơn thì có điện thờ. Tuy vậy, đến cuối giai đoạn này, nhiều nhà không có ghế ngồi. Người ta ngồi xuống những bó rơm, muốn sang hơn hoặc muốn tỏ sự tôn trọng khách thì phủ vải lên. Một tiểu thuyết thời ấy mô tả một công chúa ở trong phòng cùng các nữ tỳ ngồi xuống những bó rơm bọc lụa có thêu vương huy, và dựa lưng vào tường hay tựa [13; Tr. 36]. Các nhà thờ có một số tủ đồ đạc lớn.
Với việc thương mại ngày càng phát triển nhà của các thương gia ngày càng có những vật dụng xa xỉ hơn. Những con lạc đà mang được một khối lượng hàng hóa khổng lồ băng qua những sa mạc và núi trong thế giới Hồi giáo. Trong các chợ hào nhoáng của Baghdad và Damascus, những thương buôn hay những người giàu có thể mua vô số loại hàng hóa xa xỉ, thảm Ba Tư, ngà voi hay đồ làm bằng ngà của voi châu Phi, gia vị, lụa, trang sức, lông thú từ châu Á… Ngoài ra, trong nhà còn trang trí, sử dụng đồ tráng men của các thợ thủ công Hồi giáo nổi danh. Các tác phẩm của họ thường được trang trí chữ Arab và các hoa văn hình học. Nét đặc trưng này xuất phát từ truyền thống của đạo Hồi, không cho phép tạo những biểu tượng, hoa văn về hình ảnh con người và những thứ khác trong cuộc sống vào những công trình tôn giáo. Dưới sàn, những người giàu sang trải thảm lông thú, còn phần lớn rắc rơm vào mùa đông hay trải cói, lay-ơn hoặc các lá cây hương liệu (bạc hà, sả …) vào mùa hè. Cung điện nhà vua, mỗi khi thay thảm rơm, đem tặng chúng cho bệnh viện.
Trong nhà hay các cửa tiệm buôn bán ở thành thị cũng không thể thiếu được các vận dụng sau. Thứ nhất là thẻ ghi nợ. Người ta thường ghi lại một món nợ trên một cái que.
Những vết hình chữ V được khắc trên nó để ghi khoản nợ, sau đó cái que được chẻ làm hai, mỗi bên giữ một nửa. Khi món nợ được trả, que ghi nợ này sẽ bị hủy. Thứ hai là các hộp hình tròn hoặc vuông, có khe nhét tiền. Hầu hết những đồng xu thời kì này làm bằng bạc.
Đến năm 1252, thành phố Florence đã đúc tiền vàng. Đây là lần đúc tiền vàng đầu tiên kể từ thời La Mã và đồng tiền này được gọi là tiền vàng Florin. Để kiểm tra trọng lượng của đồng tiền ở những vùng khác nhau, hầu hết những thương nhân đem theo bên mình một cái cân tiền xu nhỏ. Biết được trọng lượng của đồng tiền người ta mới xác định được giá trị của nó và không bị thiệt khi mua bán. Dụng cụ này được làm bằng sắt, có một trục đứng với một đầu nhọn để có thể cắm được xuống bàn gỗ giúp cho nó đứng được. Vuông góc với trục đứng là một trục tay ngang được nối bằng đinh và bản lề. Trục ngang này không cân xứng.
Bên ngắn hơn có rãnh hẹp phẳng để đặt tiền xu lên. Dụng cụ này khá đơn giản và chỉ đo được từng đồng riêng lẻ, nó có thể xuất hiện sớm từ TK XII. Tên tiếng Anh của nó
“Tumbrel” xuất hiện sớm nhất trong một đạo luật về tiền của vương triều Edward I -1292.
Ngoài ra còn có các bàn tính bằng gỗ. Phần lớn thời Trung cổ, giấy rất hiếm và không nhiều người có thể đọc và viết nên phần đông các thương nhân thường tính toán trên một chiếc bàn bằng gỗ có kẻ các cột trên đó tương ứng với các kí tự. Các đồng tiền xu sẽ được đặt lên các cột lần đến khi nào chúng đạt đến số lượng cần. Sau đó, chúng sẽ được lấy hết khỏi bàn và chiếc bàn lại được dùng cho các lần tính khác.
Ban ngày, không khí trong những thành thị rất sôi động và náo nhiệt. Ngoài phố, người thợ thủ công mở cửa hiệu, vừa làm việc với công nhân hoặc với thợ học việc vừa tiếp khách hàng, trong khi người vợ dọn dẹp nhà cửa, đi chợ hoặc giúp đỡ chồng. Các phố hẹp đầy ắp người. Trên các xe kéo, lưng ngựa và lừa đầy ắp cá, rau, bơ, trứng… được đưa đến chợ. Thợ thủ công nhỏ không đủ tiền để có cửa hàng riêng, vác hàng trên lưng, vừa đi vừa rao. Bà nội trợ vét mỡ thừa trong bếp đem tới để anh thợ nến đúc thành nến ngay tại chỗ.
Anh hàng bánh có trò quay số, ai quay trúng số nào thì sẽ được số bánh tương ứng... Các chủ hiệu buôn cử người đi rao hàng khắp các phố. Các cậu hầu bàn ở quán chạy rong khắp nơi, tay cầm bình rượu và cốc, mời khách qua đường nếm miễn phí, rồi kéo khách về quán mình. Tiếng rao quảng cáo vang lên khắp nơi. Ở quảng trường Grève, Paris, người lao động tập họp để kiếm việc làm, chờ người đến thuê làm phu khuân vác, thợ phụ, chào hàng. Bến cảng ở ngay gần quảng trường. Thầy thuốc mặc bộ đồ màu tím, tay đeo găng đỏ, đi khám
bệnh. Một vài luật gia đến tòa, thường bắt đầu xử án vào giờ kinh Nhất. Các thầy giáo nghiêm chỉnh trong chiếc áo khoác lông, bắp đầu lên lớp. Trong những nhà khá giả, bà chủ lo điều khiển kẻ ăn người ở quét dọn nhà cửa, rũ sạch khăn và thảm, đánh xi bàn ghế, đánh bóng đồ đồng, sắt. Những nhà tắm công cộng được mở cho người nghèo. Năm 1292, Paris có tới hơn 26 nhà tắm công cộng, mở cửa hàng ngày, trừ ngày chủ nhật và ngày lễ. Khi nước đã nóng, nhà hàng cho người đi rao khắp thành phố, báo tin nhà tắm đã mở cửa. Có cả lệnh cấm không được rao trước khi trời sáng, sợ rằng khách sẽ bị kẻ vô lại chấn lột trong đêm tối.
Khi hoàng hôn đến, những hồi chuông trong thành thị vang rền báo hiệu việc đóng cửa thành thị cũng như kết thúc các hoạt động ngoài phố. Mọi người đã xong công việc và trở về nhà. Sinh hoạt buổi tối không kéo dài, trừ ngày 24 tháng Chạp và đêm lễ Cầu hồn.
Việc thắp sáng buổi đầu vừa kém vừa tốn. Nhà giàu có những cây nến bằng sáp ong, người khác chỉ dùng nến làm bằng mỡ. Nhiều nơi thắp đuốc bằng nhựa cây. Nông thôn cũng như thành thị đôi khi chỉ đốt lửa soi sáng bập bùng. Ở nông thôn, đàn bà ngồi quay sợi, đàn ông vót đũa, chải đay, đan rổ, gọt gỗ làm thìa, vừa làm vừa trò chuyện. Ở các lâu đài, mọi người quây quần trong phòng lớn. Một tiểu thuyết thế kỷ XIII mô tả vị bá tước mặc quần áo ngủ, ngồi trước lò sưởi, ngả đầu vào lòng một nữ tỳ để cô này tiện gãi lưng cho mình, việc này diễn ra trước mặt bà bá tước và con cái mà không ai nói gì [13; Tr. 61]. Ở thành thị, sau ít thời gian chuyện trò cả nhà sẽ đi ngủ. Lúc này, các bà nội trợ sẽ gạt vài hòn than hồng ủ dưới tro và dập tắt lò sưởi bằng cách tưới nước hay xếp riêng các cây củi ra một góc. Nguy cơ hỏa hoạn luôn tiềm tàng ở các thành phố thời Trung cổ vì nhà cửa san sát, lại phần lớn dựng bằng gỗ, trát đất. Ở các nhà to, bà chủ phải kiểm tra gia nhân trong việc tắt lửa. Để đảm bảo an ninh trên phố, người ta khóa xích sắt ở lối vào các khu phố. Về nguyên tắc, việc đi lại ban đêm bị cấm từ giờ tắt lửa cho đến lúc bình minh. Không có đèn, các con đường trong thành thị trung đại trở nên nguy hiểm. Những người tuần đêm sẽ đi tuần tra những con đường với các ngọn đèn lồng để ngăn chặn tội phạm. Các thành thị cũng cấm cư dân mang vũ khí, điều này được ban bố nhiều lần, chứng tỏ bọn tộm cướp chẳng hề quan tâm, người lương thiện phải tự lo giữ mình là chính.Việc chiếu sáng đô thị thưa thớt và kém. Tuy nhiên trong các ngày phiên chợ, một thành phố như Provins (thuộc vùng trung Bắc Pháp ngày nay) được thắp sáng ở các góc phố. Trường hợp có diễn kịch, hỏa hoạn hay “sự cố” cũng vậy, người ta yêu cầu các nhà giàu thắp đèn lồng trước nhà. Một số người sùng đạo bỏ tiền để thuê thắp đuốc trước các tượng đài.
Nhìn chung, các phố thời Trung cổ thường rất bẩn dù ngày hay đêm, vì không có tổ chức quản lý vệ sinh thính hợp. Mùi hôi khó chịu ở Paris khiến vua Philippe Auguste (1165- 1223) bị suy yếu sức khỏe. Về nguyên tắc, nhà nào chịu trách nhiệm giữ sạch trước cửa nhà nấy, trước hết không bày bẩn, không đổ rác, vật liệu, đất đá, sau đó luôn luôn quét sạch.
Nhưng thực tế, khi mà nhà cửa xây san sát chiếm hết chỗ của sân vườn, thì cư dân đành phải vứt rác ra trước cửa, rồi thả súc vật chạy rông, chó và nhất là lợn, không kể đến gà, vịt tự đi kiếm thức ăn khắp nơi. Đó là điều ta còn thấy ở gần đây nhiều làng ngày nay. Những người mổ gia súc, bán thịt, cá,… đều vứt lòng ruột ra đường. Ở Pari việc thả lợn chạy rông chỉ bị cấm vào giữa thế kỷ XII sau khi một con lợn làm cho hoàng tử (con trai cả của vua Louis VI) bị ngã ngựa chết [13; Tr. 32-33]. Thỉnh thoảng, các nhà họp nhau kiếm một xe bò, cùng chở hết rác đi đổ và cũng có những tổ chức tư nhân đứng ra làm việc này, nếu được thuê.
Phố xá còn bẩn hơn vì không lát gạch trong khi từ thời cổ đại người La Mã đã có nhiều con đường bằng gạch. Ngoài ra, vào ban đêm, nhiều cư dân hay vứt đồ xú uế qua cửa sổ, gây ô nhiễm hơn. Những xô, chậu đựng nước rửa tay hay nước thải được đổ thẳng ra ngoài đường qua cửa sổ, và mỗi lần như vậy người đổ sẽ kêu lên “Gardey loo” (xuất phát từ tiếng Pháp – garleu l’cau) với nghĩa là “cẩn thận, nước” [61; Tr. 49]. Cư dân sống trong thành thị khi đó sẽ cẩn thận để tránh bị nước vấy lên người. Các nhà viết sử Pháp ghi lại việc vua Saint Louis (1214-1270) bị hắt nước bẩn lên áo khi đi trên đường phố Paris ban đêm. Người hắt nước đã quên không nhòm ngó ra ngoài vì tưởng giờ đó không ai qua đường. Tuy vậy, vua khá bình tĩnh, không những không giận dữ mà sau khi điều tra còn cấp một học bổng cho người đã gây sự cố, đó là một sinh viên thức dậy thật sớm để học [13; Tr.
33].
Việc tiêu nước thải ở một số thành phố, như Paris, được thực hiện bằng một hệ thống cống thoát ra sông. Nhiều thành phố khác chỉ có những suối nhỏ, thỉnh thoảng được cho nước sạch chảy vào như ở Limoges (trung tâm vùng Tây Pháp). Ở Salisbury (nằm ở phía Nam nước Anh), người ta đào các dòng nhánh của sông. Nước sạch được đưa đến nhờ một mạng kênh máng, cải tiến kiểu của người La Mã hoặc tốt hơn và thường dùng hơn là nhờ đường dẫn làm bằng gỗ, sắt hoặc chì, mắc theo nguyên tắc cơ học Siphon để dẫn nước về chỗ có thể tích lớn hơn. Nước này được phân phối tới nhiều đài nước.
Ở các lãnh địa nông thôn, cuộc sống của nông nô cũng không có nhiều thay đổi ngay cả khi nông thôn đông dân và giàu có hơn, cuộc sống vẫn tĩnh tại và kinh tế hầu như tự cung tự cấp. Các lãnh chúa vẫn ở trên đất đai của mình, ở đó các tá điền sẽ đem hiện vật đến