CHƯƠNG 3: NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN PHƯƠNG TÂY CUỐI THỜI TRUNG CỔ (THẾ KỈ XIV-XV)
3.2. Nh ững chuyển biến trong đời sống
3.2.2. Đời sống hàng ngày
3.2.2.1. Sự thay đổi trong trang phục và ẩm thực
Áo phụ nữ vẫn dài. Áo của nam giới ngắn với những bộ quần áo bó sát cơ thể.
Trung thành với kiểu áo dài là những người cần tỏ ra nghiêm nghị như thầy tu, giáo sư, thầy thuốc và luật gia ở nơi làm việc của họ.
Len được ưa chuộng trong các thời kì trước nay nhường chỗ cho vải mỏng hoặc dày. Đến thế kỷ XIV, vải mỏng phổ biến đến mức dưới triều vua Charles V, một anh dân cày Normandie khi chết có thể để lại 13 cái áo [13; Tr. 40]. Người sạch sẽ thay quần áo nhiều lần. Những người khá giả còn mặc cả áo lụa xa xỉ.
Đời sống phát triển, phụ nữ cũng tăng cao nhu cầu làm đẹp, trước hết là dáng vẻ bề ngoài. Mốt bấy giờ là có bộ ngực nhô cao. Để sở hữu nó, người ta sẽ bó mình trong một tấm vải muxơlin gài chặt từ phía sau, đây thực sự là một cái “soutien” (nịt ngực). Nếu ngực quá bẹt, các bà các cô đính vào chỗ thích hợp những cuộn vải “hình quả cam”. Bên trong họ mặt áo mỏng có tay dài rồi lại phủ lên mình “doublet”, một thứ gi-lê trần bông. Tiếp đó là
“cotte” - một áo váy dài, xòe rộng ở phía dưới. Bên ngoài nữa, mặc “surcot” (áo ngoài) rất
chỉ là chiếc “jacket” đơn giản, có tay hoặc không. Nhiều người cũng viền ren, lông thú, thêu hoa trang trí cho chiến “surcot” của mình. Một số áo ngoài còn được xẻ bên sườn, có cái có tay tháo rời được để luôn biến đổi về màu sắc. Thời trang biến đổi trên mọi thứ. Lấy ví dụ như phần tay áo, có khi tay ngắn để trông thấy tay áo dài bên trong, ngược lại có cái bó sát xuống tận cổ tay rối cài lại bằng một loạt khuy hay phải khâu lại mỗi khi xỏ xong tay áo…
Những “surcot” khoác ngoài ấy dễ giặt và có thể dùng thay khăn ăn. Đôi khi người ta bó chặt thân và bụng trong một chiếc gi-lê trần bông, khởi thủy của chiếc “corset” (coóc-xê) bây giờ [78]. Thắt lưng không chỉ là những dây da đơn giản mà có thể bằng vải thêu hoặc dát vàng. Tuy vậy người ta vẫn trung thành với chất liệu da, chắc và bền.. Chiếc tạp dề chỉ được dùng vào cuối thế kỷ XIV.
Trong thế kỉ XV, những thương nhân xuất hiện với những “bộ cánh” chỉnh chu. Họ có một chiếc mũ trùm đầu. Bên trong họ mặc một chiếc áo len không tay hoặc có tay dài, chiếc áo không có khuy nhưng thay vào đó là các dây cột bằng lanh. Bên ngoài là một chiếc áo khoác dài đến gối được làm bằng len mịn và được trang trí kỹ lưỡng cho thấy dấu hiệu của sự giàu có. Cổ, tay áo, vạt áo đều được viền lông thú một cách tỉ mỉ, thời trang. Họ cũng đeo một dây lưng bên ngoài, trên đó họ treo dao ăn và một chiếc túi da được trang trí với các đường nét hoa mĩ. Bên dưới họ mặc một chiếc quần nối liền với một đôi vớ dài bao hết cả chân. Đặc biệt, trên chiếc quần nam giới này cũng được may thêm một túi hay nắp che trước phần nhạy cảm của nam giới. Nó giúp cho người mặc thoải mái hơn và thực hiện nhu cầu vệ sinh dễ dàng hơn. Từ sau 1450, thiết kế này rất được ưa chuộng. Đi kèm với bộ quần áo sang trọng là một đôi giày da đắt tiền, từ đầu gối xuống chân được thêm nhiều họa tiết như các khóa, nếp gấp để thời trang hơn.
Giống như cư dân phương Tây ngày nay, khi ra ngoài người ta khoác áo “manteau”
(măng-tô), có hoặc không có tay, có hoặc không có mũ trùm đầu cài khép trước ngực bằng một cái móng đơn giản hoặc một cái khuy trạm trổ. Hình dáng của chiếc măng-tô Trung Cổ nay còn lại trong áo choàng của nữ y tá, của nhân viên cảnh sát…Chiếc áo choàng
“pèlerine” cũng có nguồn gốc từ cổ xưa. Đó là chiếc áo choàng dài có hoặc không mũ, rất tiện lợi, của những người hành hương, những lữ khách. Vào mùa đông, những chiếc áo phủ ngoài này thường được lót lông thỏ, sóc hoặc những lông thú quý hơn. Trời mưa, mặc áo choàng xù bằng len không khử mỡ, không thấm nước. Phủ cho ngựa có những tấm choàng hình tròn, xẻ phía trước và phía sau. Manteau hay pèlerine có thể được thêu hoa, trang trí
những sợi lông rủ thành tua dưới gấu, hoặc đính ngang trên vải. Phép lịch sự đòi hỏi người ta phải cởi măng-tô khi đứng trước lãnh chúa, dù nam hay nữ cũng vậy.
So với những tầng lớp khác, quần áo của nông dân trong thế kỉ XIV, XV có ít thay đổi nhất vì nhìn chung đời sống của người nông dân vẫn khổ sở nhất. Quần áo vẫn được xem như những công cụ và được làm từ những chất liệu tại chỗ. Những người phụ nữ trải qua nhiều thời gian quay len thành chỉ thô để sau đó dệt thành vải rồi làm thành quần áo. Áo khoác không tay bằng da cừu được mặc trong mùa đông để giữ ấm và tránh mưa. Những quần áo bên ngoài hiếm khi được giặt, chỉ có đồ lót bằng vải lanh được giặt thường xuyên.
Quần áo người nông dân thường có mùi khói gỗ vì họ cho rằng nó sẽ khử mùi hiệu quả. Còn những người lính vào cuối thế kỉ XV được trang bị gọn nhẹ hơn các hiệp sĩ già trước đó. Áo giáp sắt được thay bằng các áo nhẹ hơn với các thanh nẹp, găng tay sắt, thép bọc bên ngoài.
Giờ đây các cung thủ đóng một vai trò lớn trong sự suy giảm của tầng lớp kị sĩ thế kỷ XV.
Có thể đốt cháy từ xa, mũi tên của các xạ thủ lao xuống như những trận mưa chết chóc rút vào những kẻ thù của anh ta.
Nhiều quyển sách xưa còn ghi lại cả việc mặc quần áo của nam giới theo trình tự:
“Buổi sáng khi bạn muốn dậy, đầu tiên hãy mặc áo sơ mi, mặc quần, mặc áo gile, quàng khăn, đi tất, xỏ giày, rồi mặc áo choàng dài thắt đai (thắt lưng) và rửa bàn tay, ngón tay, móng tay và mặt” [13; Tr. 53]. Như ở nhiều vùng nông thôn vẫn còn thực hiện, cư dân chỉ làm vệ sinh thân thể khi đã mặc quần áo xong, do vậy trước đó chỉ rửa mặt và tay, tức là những bộ phận hở ra ngoài quần áo. Sở dĩ người ta phải làm như vậy vì nhiều người ở chung một phòng và không có những phòng vệ sinh riêng biệt. Tắm ở nhà thường vào buổi sáng, hoặc sau khi đi đâu mệt nhọc hay bị bẩn do thi đấu, săn bắn... Sau khi tắm rửa, còn có các cách làm dáng như nhuộm tóc, nhổ lông, bôi sáp và nước hoa. Chúng ta có nhiều thông tin về các cách làm đẹp thế kỷ XIV, XV một số còn chép trong sách thảo dược. Để làm sạch răng người ta tạo ra một thứ bột bằng cách nghiền nát mai mực, vỏ hàu và một loại vỏ ốc tên gọi Bu-xi để làm sạch răng. Đây là một chất bột có công dụng bào mòn là sạch các vết ố, mảng bám. Khi bột được tạo ra, nó sẽ được cho vào một cái sừng cừu để cất giữ, người ta cũng lấy vải lanh cuộn lại để nút vào sừng đựng bột. Tuy nhiên, loại bột trên chỉ được sử dụng bởi những người giàu có với mục đích làm đẹp răng chứ họ vẫn không có ý thức sử dụng chúng để bảo vệ và vệ sinh răng. Hơi thở được làm thơm tho nhờ mật ong và cây rau mùi hoặc hạt thìa là Ai Cập [61; Tr. 61].
Ăn uống thời kì này phát triển hơn thời kì trước. Với các nhà giàu có, bữa ăn trở nên đa dạng hơn với sự ngập tràn các loại gia vị, rau quả phương đông. Đến thế kỉ XIII, Maccopolo đem biện pháp làm đông sữa từ Trung Quốc về Ý. Thế là đồ uống lạnh vào mùa hè ở châu Âu có một bước đột phá trong các thế kỉ XIV, XV. Cũng vào thế kỷ XIV, người ta đã cất được rượu trắng từ hoa quả. Thứ rượu này có mùi vị thanh nhẹ, rất hợp trong các buổi tiệc và với các quý bà.
Các buổi tiệc thường được bày trên những chiếc bàn dài. Những chiếc bàn này được xếp cẩn thận với một tấm vải lanh phủ lên. Trên bàn cũng bày đầy đủ những vật dụng sau:
các tấm thớt bằng thiếc để cắt thức ăn ở trên bàn, hình chữ thật, thường mỗi người sẽ có một cái, những chiếc tô, bát gỗ để đựng súp, các bình, lọ đựng gia vị chủ yếu là muối và mù tạc bằng bạc hay gỗ, các chiếc cốc vại có tay cầm… Việc dùng dao ăn riêng vẫn được lưu giữ, cá nhân đa phần tự mang theo dao ăn. Những chiếc dao thường được khắc lên cán các chữ viết tắt tên của người sở hữu hay chữ đầu trong tên của người chủ. Muỗng được cung cấp bởi người chủ nhà. Nếu người chủ giàu có, trên bàn còn có những vật dụng bằng thủy tinh như ly rượu, bình… Người ta cũng đóng những tấm vải nhuộm lên tường để mang đến màu sắc và giữ sạch tường.
Đến thế kỷ XIV, việc dùng khăn bàn mới bắt đầu phổ biến. Khăn bàn thường phủ xuống tận đất. Người hay chùi tay vào đó vì vậy trong những bữa tiệc lớn, sau mỗi tuần thức ăn chính, lại phải thay khăn bàn. Để khắc phục, từ thế kỉ XV, khăn ăn đã xuất hiện. Người ta chuẩn bị một tấm khăn để phủ lên đùi những người ăn một lần khi họ ngồi dùng bữa. Trước mỗi bữa ăn, người ta rửa tay ở vòi nước. Trong tu viện, cha trưởng thường đích thân đổ nước lên tay thực khách một cách lịch sự.
Trên đây chỉ là những thay đổi trong bữa ăn của những nhà quyền quý, giàu có. Bữa ăn của người bình dân vẫn bình dị như trước. Ở Normandie, người đi làm lao dịch cho tu viện Montebourg năm 1312, mỗi đầu người một ngày được ăn uống với khẩu phần như sau:
một bánh mì, canh đậu, ba quả trứng và một góc pho mát-nếu không pho mát thì sáu quả trứng, còn uống thì “tùy thích” nhưng là rượu của tu sĩ. Vào Tuần chay, quả bồ đào và ba con cá trích được phát cho mỗi cá nhân. Tài liệu ghi lại việc một đôi vợ chồng làm một bản cam kết suốt đời với các thầy tu ở Beaumont-le-Roger (ở Bắc Pháp ngày nay). Họ giao số tài sản nhỏ bé của mình cho tu viện, nhờ tu viện trông nom và nuôi họ suốt đời trên cơ sở sau: tu viện cung ứng mỗi ngày một ổ bánh mì tròn thông thường, hai bánh mì “vừa phải”, một ga-lông (4 lít) rượu táo, bia hoặc rượu các thầy dòng thường uống, một tuần ba lần có
thịt, những ngày khác 6 quả trứng, Tuần chay được bốn con cá trích. (Cộng thêm mỗi tháng một bó củi, và mỗi năm 30 xu – tương đương 1.000 phơrăng hiện nay để may quần áo).
Khẩu phần ăn hàng ngày của các thủy thủ phục vụ nhà vua Pháp vào thế kỉ XIV gồm bánh mì, đậu, đỗ, nước uống. Song tiền công của họ (40 xu một tháng) được tính toán sao cho họ có thể chi tiêu cho rượu thịt hàng tháng. [13; Tr. 48-49].
3.2.2.2. Phụ nữ, hôn nhân và sinh nở
Vai trò vị trí của người phụ nữ cũng không thay đổi nhiều. “Thật là rõ ràng” - một tu sĩ người Pháp đã viết vào năm 1386: “đàn ông thì quý phái hơn phụ nữ, và có những đức tính tuyệt vời hơn” [61; Tr. 22]. Nhà thờ thời Trung cổ thường nhìn người phụ nữ ở địa vị thấp kém hơn người đàn ông và dạy rằng những người phụ nữ nên biết nghe lời, nhu mì với những người cha và chồng của họ. Nhưng cuộc sống thực của người phụ nữ trung đại khá khác nhau. Không phải tất cả họ đều ở nhà một cách yên bình bởi vì hầu hết phải làm việc kiếm sống. Những phụ nữ nông dân phải làm việc khó nhọc bên cạnh chồng họ ở những cánh đồng, cũng như nấu ăn và may quần áo cho gia đình của họ. Những người vợ và em gái của một người thợ thủ công thường phải làm việc ở trong các xưởng và có thể trở thành những người buôn bán hàng hóa thậm chí là người chủ của cửa hàng. Những người phụ nữ giàu có sẽ tổ chức các công việc gia đình và thỉnh thoảng sẽ trông nom cả công việc của chồng họ.Với cô tiểu thư Paris trong thế kỷ XIV, vấn đề đặt ra là phải biết lựa chọn, chỉ huy, giám sát các gia nhân, chăm lo cho nhà cửa sạch sẽ, biết cách giữ gìn đồ gỗ, sắt, đồng..., chăm lo dự trữ lương thực thực phẩm (cái gì phải mua nhiều lúc ngày mùa để phòng xa, đồng thời biết cách giữ thực phẩm tươi ngon, cách ủ rượu...), chăm lo vườn tược, hiểu biết ít nhiều về các cây, loài vật để giao thiệp với tá điền, biết chọn thực đơn cho bữa ăn do đó phải sành các loại chim, cá, cách làm xốt..., rồi cắt may, thêu thùa, lau rửa… tóm lại là nghìn thứ lặt vặt của nghệ thuật nội trợ, rồi lại thêm chút hiểu biết về thuốc men và cả y học.
Một bà chủ nhà thời ấy phải là một phụ nữ đa năng. Cô gái nào đã sống trong thế giới thượng lưu nếu được gửi vào tu viện sẽ được giáo dục một cách ít thực dụng hơn. Như mọi người khác, cô học đọc, viết, hát, thêu thùa, biết chơi nhạc cụ, chơi cờ (lúc bấy giờ là mốt thời thượng, như đánh bài bridge ngày nay)…
Hôn nhân vẫn được xem trọng như những thời kì trước nhưng các buổi lễ trở nên đơn giản hơn và nhiều phần trong nó trở thành hình mẫu đến tận ngày nay. Một quý tộc thế kỷ XIV miêu tả cho chúng ta cuộc tiếp xúc hôn nhân mà anh đã tham dự (đây có thể là một
“Một lần, người ta nói với tôi là tôi sẽ lấy một cô gái quý tộc xinh đẹp có cha và mẹ. Lãnh chúa sẽ đưa tôi tới gặp cô ấy. Khi chúng tôi đến đó, mọi người đón tiếp rất thân mật, niềm nở. Tôi nhìn cô gái được giới thiệu cho tôi và hỏi rất nhiều để hiểu về con người cô. Tôi nói với cô ta bằng giọng mềm mỏng của một tù nhân”:
“Thưa tiểu thư, tôi mong được là tù nhân của cô hơn là tù nhân của những người khác và tôi nghĩ rằng nhà tù của cô sẽ không khắc nghiệt như nhà tù của người Anh’’. Tiểu thư đó trả lời tôi rằng cô chưa thấy người cô muốn bỏ tù. Lúc đó, tôi hỏi cô liệu cô có bỏ tù anh ta không, và cô ấy trả lời là không, rằng cô sẽ yêu quý anh ta như chính bản thân mình. Và tôi nói với cô ấy rằng người đàn ông đó chắc sẽ rất hạnh phúc khi ở trong một nhà tù dịu dàng và cao quý đến thế. Tôi sẽ nói gì với các ngài ư? Tiểu thư đó có khiếu ăn nói và theo những lời nói của nàng thì dường như nàng biết ưu điểm của mình và là người có con mắt sắc sảo. Tuy nhiên, trước khi tôi về, nàng khá bạo dạn khi đề nghị tôi, hai hoặc ba lần gì đó, đến nhà chơi....Ôi ước gì tôi chẳng dính dáng đến cô nàng và biết được người ta nói gì về đám cưới của chúng tôi. Về đến nhà, lãnh chúa hỏi tôi: “Ngươi thấy tiểu thư ấy thế nào? ” Tôi đáp: “Thưa ngài, đó là một cô gái đẹp và tốt nhưng tôi không hợp với cô ấy”. Tôi nói với ông những suy nghĩ của tôi về cô. Và thế là đám cưới không thành.” [13; Tr.
112-113].
Cũng như thời nay, khi đôi trai gái và hai bên gia đình đều đồng ý, người ta tiến hành lễ đính hôn, trao nhẫn. Một tiểu thuyết đã tả cảnh ấy như sau: “Vị hôn phu rút nhẫn khỏi ngón tay mình, đeo vào tay nàng và nói: Nàng ơi, bằng chiếc nhẫn vàng này, tôi cam kết sẽ mãi mãi yêu thương chung thuỷ” [13; Tr. 113]. Rồi chàng lại cầm của nàng một chiếc nhẫn, và đeo vào tay mình. Như vậy là ở đây có hai chiếc nhẫn: người nọ nhận nhẫn của người kia. Đây không chỉ là trao quà tặng, mà là sự ký kết một hợp đồng với nhiều hiệu quả về pháp lý. Nên chú ý là ở thời Trung cổ, việc chuyển quyền sở hữu hoặc chuyển giao tài sản cũng thường được tiến hành bằng một thủ tục tượng trưng, bằng cách trao cho nhau một đồ vật nào đó của riêng mình (nhẫn, dao, găng tay...). Vậy việc trao nhẫn trong lễ đính hôn không phải chỉ là cử chỉ thân ái, nó xác định hai người đều có một quyền đối với nhau. Cắt đứt sự cam kết đó rất khó được chấp nhận, lại còn phải chịu trừng phạt.
Nhà thời là thực thể gìn giữ những lời cam kết, chính thức công nhận lễ đính hôn bằng một nghi thức quen thuộc đến tận ngày nay. Cặp đôi đi cùng với cha mẹ và bạn bè đến nhà thời và được linh mục mặc lễ phục ra đón từ vòm cổng. Sau khi hỏi lại tên tuổi, linh