CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG DIỆU "TRONG VĂN XUÔI NGHỆ
3.1. M ột giọng văn thủ thỉ tâm tình
Giọng điệu là một trong những yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên phong cách của nhà văn. Nhà văn có tài là nhà văn có giọng điệu riêng, không lẫn với ai. Nam Cao với một loạt các tác phẩm viết về người trí thức nghèo, người nông dân nghèo đã tạo cho mình một giọng điệu riêng. Đó là sự tổng hòa của những cực đối nghịch: bi và hài, trữ tình và triết lý, cụ thể và khái quát. Khi sáng tác, Nam Cao thường đứng từ bên trong những cuộc đời, những số phận con người để luận bàn, phán xét về xã hội, về cuộc đời. Vì thế giọng văn của Nam Cao khi rền rĩ, ai oán; lúc chì chiết, nghẹn ngào, thống thiết đầy kịch tính. Tiếp xúc với các nhân vật của Nam Cao, người ta có cảm tưởng như sờ vào những con người thực của cuộc đời bởi nó không chỉ có da, có thịt, mà mỗi nhân vật vẫn còn vẹn nguyên những vị đắng của cuộc đời.
Còn Vũ Bằng, ông không chỉ đúng từ bên trong những cuộc đời, những số phận để xem xét, luận bàn như Nam Cao mà ông còn từ cái "tôi" nội cảm của mình mà bộc bạch, giãi bày.
97
Cái "tôi" nội cảm ở Vũ Bằng do hoàn cảnh riêng nên có nhiều khác biệt so với cái "tôi" thường thấy trong văn học hiện đại. Vì thế, giọng điệu trong các sáng tác của Vũ Bằng, vừa quen lại vừa lạ, khá độc đáo.
3.1.1. Trước hết, câu văn trong các tác phẩm của Vũ Bằng khá tợ nhiên, gần gũi, thân mật, ít trau chuốt. Ông thường chọn lối đi thẳng, đi trực tiếp vào câu chuyện, vào tâm trạng nhân vật. Chẳng hạn, trong truyện ở đây bán sách cũ ông mở đầu thế này:
"Cứ đằng thẳng ra, ông cụ cố thể sống như thế mà không cần phải dở cái hòm kia ra làm gì. Nhà chỉ vẻn vẹn có hai ông cháu..." [20; 257].
Đoạn văn làm chúng ta có cảm tưởng ông đang nói chuyện với mình về một người thứ ba nào đó mà chúng ta mới biết sơ sơ hoặc gặp ở đâu đó rồi. Khoảng cách giữa người kể chuyện với người nghe chuyện, đọc chuyện vì thế được rút ngắn đến mức li tưởng.
Còn trong truyện Bữa Cỗ, Vũ Bằng lại mở đầu bằng lời độc thoại nội tâm: "Mặc chứ! Ở nhà buồn bỏ mẹ, lại không cổ cái gì ăn. Người ta giàu, ăn cỗ trồng trăng vui vẻ, mình nịnh họ vài câu, họ gọi mình cho chén, lại "đét xe " bánh dẻo, bánh nướng, tội cóc gì không chén... [20- 321].
Nhân vật nói với mình nhưng thực ra là nói với độc giả, hướng tới độc giả. Vì thế, trong người đọc, cảm giác đang đọc truyện được thay thế bằng cảm giác đang nói chuyện với một người bằng xương, bằng thịt hẳn hoi. Có lẽ chẳng còn gì gần gũi, thân thiết bằng.
Ở các tác phẩm: Đất khách, Tiếp theo và hết truyện Lưu Bình- Dương Lễ, Thương nhớ mười haita cũng bắt gặp những kiểu dẫn chuyện giản dị như vậy. Nói thế không có nghĩa là Vũ Bằng chỉ có một lối mòn duy nhất để dẫn người đọc vào tác phẩm. Là người đọc nhiều, biết nhiều, Vũ Bằng đã tích lũy được nhiều kiến thức, nhiều kinh nghiệm từ những người đi trước và vận dụng khá thuần thục trong những trường hợp cần thiết. Đọc các sáng tác của Vũ Bằng, có lúc ta còn bắt gặp lối kể chuyện mào đầu kiểu Thạch Lam. Chúng ta thử quan sát hai phần mở đầu truyện sau:
- "Cuộc đời có nhiều cái chế riễu đắng cay và đau đớn làm cho chúng ta đột nhiên hiểu cái ý nghĩa chua xót và sâu xa. Tôi sẽ kể câu chuyện dưới đây làm chứng cho sự ấy" [58; 114].
98
-"Hầu hết chúng ta đều có thành kiến là những người làm lớn đều tinh khôn, mưu mẹo và biết đối phó một ách hợp tình hợp lý mỗi khi cần. Vì quan niệm như thế, người ta cho rằng những ông làm to đều là những người thông thạo, thào vát, ma lanh. Sự thực nhiều khi trái ngược hẳn thế.
Có người bảo rằng một số lớn các ông "làm nên" được chính là vì "quỷnh", bởi vì nếu người ta chọn người làm việc mà lại khôn ngoan tài giỏi thì nó bướng bỉnh, lì lợm, không chịu nghe lời cấp trên bảo nhỏ. Trái lại chọn lựa những anh ma bùn, cả quỳnh, nó biết thân nó dốt, nó ngu thì nhất nhất nó nghe theo lời chỉ bảo và thi hành nhiệm vụ một cách triệt để trung thành. Như thế tốt hơn và đỡ gây hậu họa.
Tôi quen biết một ông trong bọn đó..." [20; 393].
Cả hai mở chuyện bằng những câu chữ khá mộc mạc, đời thường. Có cảm tưởng như cả hai ông nghĩ như thế nào, nói thế ấy, không phải cân nhắc, lựa chọn nhiều. Từ hai ví dụ trên và từ việc đọc những tác phẩm khác nữa của Thạch Lam và Vũ Bằng như: Một cơn giận; Sợi tóc;
Người đầm; Người lính cũ...(Thạch Lam) Truyện của một người cũng biết cười; Ăn tết thủy tiên; Một chục bạc, một trận đòn, một kiếp người (Vũ Bằng) người ta thấy dấu ấn phong cách của mỗi nhà văn in khá đậm ngay từ những phần mở truyện gần giống nhau ấy: Văn của Thạch Lam thường gọn, cô đọng; văn của Vũ Bằng cụ thể, chi tiết, nghiêng về giảng giải nhiều.
3.1.2. Trong các sáng tác của Vũ Bằng có nhiều câu văn ít làm duyên, làm dáng, nó thường có vẻ nôm na do sử dụng rất nhiều ngôn ngữ đời thường:Đây là ít câu trích trong truyện ngắn Tiếp theo và hết truyệnLưu Bình- Dương Lễ:
"Lặn ngòi noi nước về được đến Hà Nam, chàng đã chạy đi đủ các nơi có thẩm quyền để vận động cho Lưu Bình" [20; 287]
"Vả chăng, ở cái thời buổi bi ba bi bét này, ai lại dại mà ngồi ở nhà tiếp chuyện một ông bạn ở hậu phương ra- mà ông bạn hậu phương ấy mình lại thừa biết thuộc thành phần nào, trong kháng chiến ( ...) Lớ vớ có người nào trông thấy mà đi trình báo với Tây thì liệu có còn sống mà ăn sắn hay không?" [20; 291].
Còn đây là ít câu trích trong tác phẩm văn xuôi trữ tình dài hơiThương nhớ mười hai:
99
"Nắng như điên, thế mà anh lại lên cơn yêu Sài Gòn muốn đi nhởn nha ngắm cảnh thì phải ước đoán, lúc về, nếu không thành lợn quay ít ra anh cũng "trúng", phải cạo gió rồi uống Càn khôn tán, Càn cơ tán vài phong là xoàng" [2; 74]
"Gớm thay là cái xứ Bắc Việt mền thương, không giàu bằng ai, không sang bằng ai mà sao lại sản xuất được cái cà, cái dưa, cái tương, cái mắm ngon "quỉ khóc thần sầu" đến thế[20;
95]...
Chúng ta hãy quan sát thêm ít đoạn văn khác trong một số sáng tác của Tô Hoài trước 1945 :
“Con gái không có mẹ là chứa đoảng” [45; 33].
và :
- "Con gái bây giờ đoảng cả" [43; 123].
Hay :
"Ngoài hiên suốt dọc, các bác đến làm giúp lúc này bây giờ ăn đỡ. Ngoài sân một dãy dài những đàn bà và trẻ bé. Có mụ ngồi xem xệp, đứa con ngủ lắc lư trong lòng mà cũng và lấy và đề- Đàn bà, trẻ con cả xóm kéo đến, ăn như trống đánh" [45; 88].
Đối chiếu những đoạn văn trên của hai tác giả chúng ta nhận thấy: khi sáng tác, cả hai đều sử dụng nhiều vốn ngôn ngữ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày ỉ của nhân dân. Cũng là sử dụng vốn ngôn ngữ trong lời ăn tiếng nói của nhân dân nhưng Tô Hoài có xu hướng sử dụng những ngôn ngữ có tính địa phương trong phạm vi hẹp, ông hay sử dụng những yếu tố khẩu ngữ đặc trưng của một vùng quê: vùng Nghĩa Đô quê ông. Từ đoảng trong tiếng phổ thông được dùng với nghĩa là "vụng về, không khéo léo" hay "hão huyền, không nên việc". Trong những ví dụ trên, Tô Hoài lại dùng với nghĩa gần giống như là "hư hỏng". Còn "ăn như trống đánh" là một thành ngữ riêng mà người Nghĩa Đô quen dùng để chỉ việc ăn nhanh, ăn vội vàng.
Trong khi đó, Vũ Bằng có xu hướng sử dụng những ngôn ngữ có tính địa phương trong phạm vi rộng- những phương ngữ Bắc Bộ. Điều này ít nhiều cũng khiến độc giả cảm thấy văn chương Vũ Bằng gần gũi hơn.
100
Ngoài ra, khi tả hay kể, Vũ Bằng thường không hề dấu giếm những nhận xét hay cảm xúc của mình. Trong các sáng tác của Vũ Bằng, đặc biệt trong Thương nhớ mười hai và Miếng ngon Hà Nội, ta còn hay bắt gặp những từ và nhóm từ yêu quá, thương quá, nhớ quá, ngon đáo để, vui đáo đề, sướng quá, sướng không chịu nổi, ngon lạ, ngon lùng, trông mà lộn ruột, ăn cũng ác lắm..Ví dụ như:
"Trông mà lộn ruột muốn tát cho một cái" [8; 63].
Hay:
"Rõ ràng là mình đương buồn muốn chết, người cứ ủ rũ ra, mà "làm một bữa" vào, chỉ giây lát là "nó sướng tỉnh cả người ra", "không chịu được" [8; 168]...
Cách phát biểu trực tiếp những suy nghĩ, cảm xúc này dễ khiến ta có suy nghĩ văn chương của Vũ Bằng không thể nôm na, giản dị hơn được nữa. Vì vậy, nó cũng không thể chân thật hơn được nữa. Có thể nói, việc sử dụng ngôn ngữ đời thường của phương ngôn Bắc bộ đã tạo nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm Vũ Bằng. Ở những ví dụ trên những từ ngữ, những thành ngữ như: lặn ngòi noi nước, bi ba bi bét, ai lại dại, lớ vớ, sống mà ăn sẳn, nắng như điên, đi nhởn nha, thành lợn quay, gớm thay, cái dưa, cái cà, cái tương, cái mắm, ngon "quỷ khóc thần sầu"... đích thị là thứ ngôn ngữ tầng lớp bình dân Bắc Bộ. sử dụng thành thạo lớp từ ngữ này trong các tác phẩm văn chương là một nét phong cách của Vũ Bằng. ở điểm này, Vũ Bằng gần với Tô Hoài mặc dù về mặt đề tài, mỗi người có một sở trường khác nhau.
Đọc các sáng tác của Vũ Bằng, ta có cảm tưởng ông là một người hay chuyện, không gặp người quen thì thôi, đã gặp thì hết chuyện này đến chuyện kia, miên man, khó lòng dứt ra được.
Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến kết cấu của các sáng tác Vũ Bằng, đặc biệt là các sáng tác dài hơi kiểu như Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam... Đó là kiểu kết cấu tâm trạng; kiểu kết cấu này "không chấp nhận hình thức tuyến tính thời gian của nội dung miêu tả”[20; 79] mà nó phụ thuộc vào cảm xúc, tâm trạng của người viết. Trong Tháng tư mơ đi tắm suối Mường ông bắt đầu bằng cảm giác khó chịu vì cái "nắng như điên" của Sài Gòn tháng tư. Từ cái nắng miền Nam, ông nghĩ đến bệnh tê thấp, đến ười nóng tháng tư của đất Bắc. Rồi ông nhớ lại "những ngày tay chống gậy, vai mang ba lô, anh lang thang trên các nẻo đường đất nước để sổng cái đời lí tưởng" [5; 78]. Ngòi bút của ông dừng lại ở cái kỷ niệm
"ngày nào mình cũng đi tắm suối ở xứ Mường" [5; 78] và giảng giải ý nghĩa của nó: "Tắm như
101
thế không phải là tắm cho cái thân thể tục tằn này mà tắm luôn cho cả đôi mắt, tắm nốt cả cái tâm hồn phiền toái của mình vì vừa tắm, vừa ba lơn, vừa trò chuyện, mình mới thấy cô gái Mường đáng yêu biết nhường nào, chân thực biết nhường nào" [5; 79-80]. Đến đây mới hết 7/27 chương sách. Từ đây, Vũ Bằng lại dẫn chúng ta dong đuổi ngược về quá khứ, đến với bài thơ Đêm mùa hạ của Nguyễn Khuyến; trở lại cái thuở tác giả "còn là đứa trẻ lên năm lên sáu, đi ra ven hồ, tìm đến các bãi cỏ, dưới các gốc cây để đái vào những cái lỗ con con bắt dế" [5;
84]. Ông miên man nhớ về tiếng ve, nghĩ về "cái kiếp ve ve nghệ sĩ" [5; 86] và ông nhớ ra rằng
"cũng và cữ này đây, ở Bắc Việt bắt đầu có vải" [5; 86],-"Nhớ cũng vào một mùa vải như thế này, hai vợ chồng rảnh cùng đi về Vụ Bản thuê một căn nhà rơm để nghỉ mát...'" [5; 91-92]. Từ mùa vải, Vũ Bằng nhớ đến tiếng chim tu hú, nhớ đến chén cơm mùa hè ăn với cà rồi ông tiếp tục cắt nghĩa: "nhớ đến quả cà Nghệ hay là miếng cà bát dầm tương ăn đúng vào lúc hè, có phải đâu là chỉ là nhớ cà mà thôi, mà chính nhớ đến người vợ tao khang..." [5; 96]. Cứ thế, theo mạch cảm xúc, ông nói với chúng ta về nỗi nhớ chén chè đậu, chè bà cốt, chè lam của đất Bắc để rồi kết thúc bằng câu chuyện về người vợ "khéo đón ý chồng nấu đôi chén chè để hai vợ chồng cùng thưởng thức trong bầu không khí lắng đọng của ban đêm có tiếng ve kêu lẫn với lời oán trách của con tất xuất" [5; l01].
Ở các chương Tháng Ba, rét nàng Bân; Tháng Năm, nhớ nhót, mận, rượu nếp và lá móng... (Thương nhớ mười hai) hay Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam ta cũng luôn tìm thấy kiểu kết cấu tâm ữạng như vậy. Bình thường, kiểu kết cấu này nếu lặp đi lặp lại dễ làm độc giả "mỏi chân", khó có thể đọc một hơi cho hết tác phẩm. Các sáng tác của Vũ Bằng thì không thế. Điều đó có nhiều lí do. Trước hết, kết cấu trong từng sáng tác, từng phần (chương) sách của Vũ Bằng khá chặt chẽ. Trong một phần (chương) ông có thể nói nhiều chuyện nhưng tất cả các chuyện đều tập trung hướng vào chủ đề chính. Chẳng hạn, trong ví dụ trên, rõ ràng là ông nói nhiều chuyện nhưng tất cả những chuyện ấy đều là những chuyện của tháng tư, thuộc về tháng tư, có thể là tháng tư ở quá khứ hay trong hiện tại. ở các chương sách khác, tình hình diễn ra cũng tương tự như vậy.
Lí do thứ hai, có lẽ là vì Vũ Bằng, mặc dù là người có vẻ ưa dông dài nhưng về cơ bản, ông là người "nói chuyện" rất có duyên. Ông đã chọn được một lối nói dễ đi vào lòng người:
lối nói kiểu tâm sự, tâm tình. Đọc các sáng tác của Vũ Bằng ta có cảm tưởng đang nghe ông nói
102
chuyện. Có thể là ông nói chuyện với một nhân vật tưởng tượng nào đó. Truyện có một người cũng biết cười là một tác phẩm có tính chất tự truyện. Đây là đoạn mở đầu của nó:
"Ông Lê Văn Sĩ về đây ngày đầu tháng đã gặp tôi và cho biết đến thượng tuần tháng mười, bà sẽ qua chơi Bắc Việt.
Tôi làm thể nào để tả được nỗi vui sướng khỉ được tin người ban cũ vẫn khang trang vui vẻ như xưa- nhất là lại biết rằng bà vẫn còn nhớ đến tôi và lại mong muốn cho tôi cái hân hạnh được một phần nhỏ mọn vào cái tác phẩm của bà đương soạn cho ra đời" [20; 310].
Ở đoạn trích trên và ở cả tác phẩm, nhân vật chính đã xiừig tôi và gọi người đối diện là bà, người bạn cũ.
Trong Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam ông cũng xưng tôi và gọi người nói chuyện tưởng tượng là anh, ông, bà, cô Năm, cô Bảy ...Ví như:
"Cô Năm đã ra thăm ngoài Bắc lần nào chưa nhỉ? (...) Bánh đây là bánh tôm. Nhưng kì lắm cô Năm à- nói cô đừng buồn, chớ quả thực là tôi thấy cái bánh tôm chiên bán ở tiệm, ở quán, ở chợ trong mười một quận đô thành nó vẫn thế nào, chớ không như cái bánh tôm ở đường Cổ Ngư Hà Nội" [5; 106]: Hay:
"Đậu mềm, tương dịu ngọt, bánh đúc mỡ màng, cầm tay mà ăn vào một buổi trưa hè thanh nhã, xa xa có tiếng ve kêu rền rền- không tôi đoán chắc với ông rằng: ta có thể ăn thế mãi mà không biết chán" [8; 91].
Cũng có khi ông xưng tôi nhưng không gọi tên người đối diện tưởng tượng khiến người đọc có cảm tưởng ông đang nói chuyện với mình, rằng mình đang được tham dự trực tiếp vào câu chuyện của ông. Chẳng hạn như:
"Tôi đố ai tìm được một thứ sản phẩm gì của đất nước mà biểu dương được tinh thần của những cuộc nhân duyên giữa trai gái như hồng và cốm!" [8; 106]. Có trường hợp ông xưng anh, người chồng và gọi người đối diện là em, là Quì:
"Quì ơi, bây giờ em ở đâu? Tại cái xứ có nhiều loại kèn xe hơi cực kì tối tân này, em có biết rằng người chồng thỉnh thoảng trông ra nắng tháng tư lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng ta đang dựa gốc cây thiêm thiếp, sực nghe thấy con chim tu hú, đều mở cả mắt ra để cùng tìm xem con chim tu hú ở đâu mà kêu to như thể ở chính bên tai ta vậy?" [5; 92].