Nh ững trang viết giàu nhạc tính, nhạc điệu

Một phần của tài liệu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của vũ bằng (Trang 112 - 121)

CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG DIỆU "TRONG VĂN XUÔI NGHỆ

3.3. Nh ững trang viết giàu nhạc tính, nhạc điệu

Theo Nguyễn Phan cảnh "văn xuôi trữ tình tồn tại như một dạng đặc biệt của văn bản nghệ thuật. Kể cũng khá nghịch lí là nhẽ ra văn xuôi các văn bản phải hướng đến ngữ cảnh và do đó phải làm việc bằng hệ kết hợp. Nhưng văn xuôi trữ tình ngược lại đã làm việc chủ yếu bằng sự lựa chọn. Và vì thế hình tượng câu vãn do các văn bản này dựng lên sẽ không còn mang tính chất tạo hình nữa. Bản chất của văn xuôi trữ tình là ở đây, nó thuộc dạng biểu hiện của nghệ thuật ngôn từ" [13; 58].

Do nặng về ưu thế biểu cảm và "thuộc dạng biểu hiện của nghệ thuật ngôn từ" nên văn xuôi trữ tình thường giàu nhạc tính, nhạc điệu. Văn xuôi trữ tình của Vũ Bằng là một ví dụ tiêu biểu. Văn xuôi trữ tình của Vũ Bằng giàu nhạc tính, nhạc điệu trước hết là vì tâm hồn nhà văn lúc nào cũng nồng nàn, da diết nhố người, nhớ cảnh- những người, những cảnh thuộc một không gian khác, thuộc một

113

vùng văn hóa khác đang ngày một vượt xa tầm với của tác giả. Ở trong một hoàn cảnh đặc biệt về tâm lí, tình cảm như vậy, Vũ Bằng luôn nỗ lực tìm một giải pháp tốt nhất để giãi bày, giải tỏa những nỗi niềm cánh cánh, chất chồng trong lòng mình. Một trong những giải pháp ấy là phép lặp, sự lặp lại.Văn xuôi tự sự rất kị sự lặp lại nhưng chỗ tối kị này lại là sức mạnh của văn xuôi trữ tình để tạo ra tiết điệu, nhạc cảm cho tâm trạng và âm hưởng trữ tình của tác phẩm. Vũ Bằng đã tỏ ra nhanh nhạy và tài ba trong việc khai thác tác dụng của là phép lặp, sự lặp lại (còn gọi là phép điệp).

Ở giai đoạn trước, Hồ Dzếnh đã khai thác phép lặp để tạo ra tiết điệu, nhạc cảm cho tâm trạng và âm hưởng trữ tình cho tác phẩm. Ông đã diễn tả sự dõi mong đến vô vọng của nhân vật chị đỏ Đương bằng những câu văn giàu sức truyền cảm thế này:

"Xa- Xa và xa. Lòng chị đỏ Đương tưởng tượng làm sao ra cái màu mênh mông của biển cả để với qua đổ một người đã mang đi nửa cuộc đời của chị" [104; 483].

Trong Hai đứa trẻ Thạch Lam cũng sử dụng phép lặp để tạo không khí cho câu chuyện:

"Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong của hàng hơi tối muỗi đã bắt đầu vo ve "...[61; 143]

Nhìn chung, Thạch Lam và Hồ Dzếnh có sử dụng phép lặp trong các sáng tác của mình nhưng không nhiều. Trong khi đó hiện tượng này ở các sáng tác của Vũ Bằng lại là phổ biến.

Vũ Bằng hay sử dụng lối điệp từ, điệp ngữ. Lặp lại nhiều trong các sáng tác của ông là các từ ngữ nhớ, yêu, thương tôi, ta, anh, ở đây, bây giờ, ngày xưa... Trong đó, từ nhớ được tác giả dùng khá linh hoạt, như một điệp khúc có thứ lớp phân minh với nhiều hàm nghĩa khác. Chúng ta hãy quan sát một số ví dụ sau:

-“Bây giờ, người xa cách Bắc Việt lâu ngày cũng vậy: ăn một tố hủ tíu thì nhớ đến phở Bắc "chính cống" ăn vào buổi sáng rét căm căm; trồng thấy cua bể thì nhớ đến bát canh cua đồng nấu với rau rút và khoai sọ; gặp một ngày bão rớt thì lòng lại buồn rười rượi, nhớ đến thu sơ gió mát, hoa vàng...” [5; 15].(1)

-"Tôi còn nhớ mãi những buổi tôi mưa phùn gió bấc ở trong cái làng đồng chiêm lầy lội, lúc còn tản cư vùng Hà Nam"... [8; 139].(2)

114

-"Ngọn gió lạ lùng! ơ đâu cũng thê, nó làm cho lòng người nao nao nhưng ở hậu phương thì cái buồn ấy làm cho ta tê tái quá, não cả lòng cả ruột. Nhớ không biết bao nhiêu! Mà nhớ gì? Nhớ tất cả, mà không nhớ gì rõ rệt!" [8; 102].(3)

-"Trông thấy cốm, ta nhớ đến những dải thóc nếp hoa vàng man mác, có những cô gái vừa hát vừa làm ; trông thấy trà mạn sen, thấy ruốc, ta nhớ đến những người mẹ già thương con, những cô em gái thương anh, những người yêu thương người yêu, ngồi giã ruốc, sấy chè gửi cho nhau..." [8; 132]. (4)

-"Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thương yêu, nhớ những con đường đã đi về năm trước, nhớ người bạn chiểu chăn dắt tay nhau đi trên những con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa càu, hoa bưởi." [5; 12]. (5)

-"Hỡi người khách xa nhà, một chiều đìu hiu, đương gió nồm mà chuyển ra gió heo may, hỏi có nhớ đến buổi quây quần vợ vợ, con con ở dưới bóng đèn, bên một mâm cơm có một bát giả cầy hay một bát hầu lốn nghi ngút khói, hoặc một đĩa cá kho khế (hay kho củ cải) ăn với rau diếp thái nhỏ tăn như sợi chỉ" [8; 216]. (6)

Ở ví dụ (1) từ nhớ lặp lại 3 lần. Nhớ ở đây có thể hiểu là nhớ lại. Đến ví dụ (2), từ nhớ có nghĩa là ghi nhớ. Sang ví dụ (3), điệp từ nhớ diễn tả một tâm trạng-Tâm trạng rối bời ngổn ngang những nỗi nhớ, nhiều nỗi nhớ, khó lòng có thể tách bạch một cách rạch ròi của người ở hậu phương mỗi độ thu về. Qua ví dụ (4), điệp từ nhớ vừa có thể hiểu là nhớ lại, vừa diễn tả một cảm giác- cái cảm giác về sự thiếu vắng cái quen thuộc, thân thuộc trong đời sống hàng ngày. Cảm giác này thường xuất hiện trong lòng những kẻ tha hương khi gặp những hoàn cảnh, những sự vật quen thuộc nào đó. Trong ví dụ (5), từ nhớ lặp lại đến 5 lần. Cùng với phép liệt kê, điệp từ nhớ đã khắc, đã chạm vào lòng người nỗi nhớ. Một nỗi nhớ cụ thể, da diết, không nguôi, không dứt. Cuối cùng là ví dụ (6). Ở đây, nhớđược cảm nhận, được hiểu là sự tổng hợp của tất cả các nghĩa trên: vừa là nhớ lại, ghi nhớ, vừa là tâm trạng, cảm giác cộng với nỗi nhớ...

Vũ Bằng cũng hay sử dụng những điệp ngữ. Trong các sáng tác dài hơi, người ta hay bắt gặp các điệp ngữ: ta nhớ, tôi nhớ, ở Bắc Việt, ở miền Bắc, ở miền Nam. Khi sử dụng các điệp ngữ này Vũ Bằng hoặc nhằm nhấn mạnh, khẳng định chủ thể trữ tình, khẳng định cái tôi nội cảm phong phú, đa dạng:

115

- Ta nhớ đến ngô rang khi thấy gió lạnh đìu hiu; ta nhớ đến bát rượu nấu với niễng vào những ngày ẩm thấp nặng nề, tức bực muốn mưa mà không mưa được; ta nhớ đến bát canh rau cần ngọt xót nấu với tôm Thanh khi thấy lá rụng đầu thu thấy mưa ngấu, ta nhớ đến sấu dầm và ta nhớ đến cá rô đầm Sét mỗi khi thấy mùa sen trở lại" [8; 216].

hoặc nhằm nhấn mạnh sự thức nhận của chủ thể trữ tình về tình trạng tha hương, cô độc, lẻ loi của mình :

Ở Bắc Việt, tháng ba có tết Hàn Thực kiêng dùng lửa, chỉ ăn ròng đồ lạnh"[5;70]

-"Ờ phải, cũng vào cỡ này đây, ở Bắc Việt bắt đầu có vải" [5; 88].

-"Ở miền Nam, tôi đã thử ăn cơm rượu, ăn không, và có khi ăn lẫn cả với xôi" [5; 113].

Ngoài ra, trong các trang viết của Vũ Bằng, người ta còn thấy lặp đi lặp lại các từ ngữ, hình ảnh: trăng, người đàn ông, người chồng, người vợ. Sự lặp đi lặp lại các từ ngữ, hình ảnh kể trên luôn đồng nghĩa với sự trở đi trở lại của những nỗi nhớ, nỗi niềm. Những nỗi nhớ, nỗi niềm không nguôi không dứt ấy, bản thân nó đã là những điệp khúc giàu sức ngân vang, đủ làm nhức nhối trái tim của kẻ xa nhà, của người tha hương. Cộng thêm sức ngân của âm, của từ;

cộng thêm tác dụng của những phép lặp mà những trang viết- thực chất là tiếng lòng của Vũ Bằng, vốn đã giàu nhạc tính, nhạc điệu lại thêm du dương, mềm mại, giàu nhạc tính, nhạc điệu hơn.

Ở cấp độ câu, chúng ta thấy câu văn của Vũ Bằng có nhiêu điểm khác biệt. Trước hết Vũ Bằng hay sử dụng kiểu câu dài. ở điểm này, câu văn của Vũ Bằng khá gần với câu văn của Nguyễn Minh Châu sau 1980. Đọc các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1980 chúng ta hay bắt gặp những câu văn kiểu như thế này:

"Khoác hờ chiếc áo da vào bên vai ngồi co ro trên tháng xe, lão đau đáu đưa mắt nhìn cái khoảng cổ đã trụi hết lông và sần sùi da cóc của con vật trên đó chiếc ách cổ đang siết chặt lấy làm phất ra những tiếng lộc cộc trong đêm vắng, và một khoảng bóng tối đen kịt cứ như đóng đinh vào phía trước mặt con bồ, một khoảng bóng tối dường như quá sâu, quá dày, còn lâu mới chọc thủng và dưới chân lão Khùng và con vật, tất cả cỏ cây, đất đai đều đang còn nồng nàn trong giấc ngủ say như chết, những con chim sâu đang lẩn lút trong đám cỏ may

116

cũng chưa hề kêu chích chích, lão chỉ nghe tiếng côn trùng tỉ tê rất xa, và bốn phía trái đất dường như đang còn mịt mùng chìm đắm trong khoảng tối của âm ty" [15; 604-605].

Cảm nhận đầu tiên của chúng tôi là câu văn trên khá hiện đại. Qua câu-văn kiểu này, Nguyễn Minh Châu có thể chuyên chở được nhiều tầng ý nghĩa và người đọc, để cảm nhận được hết ý tứ của nó phải liên tưởng, suy ngẫm rất nhiều. Tiện đây, chúng ta hãy đọc ít câu trong các sáng tác của Vũ Bằng. Đây là một câu trong Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt (Thương nhớ mười hai):

"Anh có thể đạp cỏ trên Hồ Gươm, đợi đến sâm sẩm tối ra ngồi ở Thủy Tạ nhìn các cô gái đẹp như tiên mặc áo nhung, áo len trăm mầu ngàn sắc, in bóng hình xuống đáy nước lung linh; anh có thể vào một nhà hát thưởng vài khẩu trống, "mở quả mứt" phong bao cho các chị em, rồi uống với mỗi em một li rượu " lấy may", anh có thể vào một ngôi chùa nhang khói nghi ngút, đưa mắt nhìn xem có cô nào thực xinh thì quì ngay xuống bên cạnh cầu Trời khấn Phật cho cô càng ngày càng đẹp và trong năm lấy được một người chồng xứng y như ... anh vậy" [5;

18-19]. (1)

Còn đây là một câu trong Miếng ngon Hà Nội:

-"Miếng ngon của Hà Nội phải đâu là mấy thứ đó mà thôi, Hà Nội ngon là ngon từ cái dưa, quả cà, trách mắm; Hà Nội ngon là ngon từ bát canh hoa lí nấu suông, mấy cái trứng cày chưng lên ăn với gạo Mễ Trì hay đĩa rau muống xào có gia thêm một chút mắm tôm; Hà Nội ngon là ngon từ miếng cá thu kho với nước mía ăn với gạo tám thơm vào đầu đông, mấy bìa đậu sống ở Phú Thụy chấm với" [8; 213- 214]. (2)

Và đây là lời cầu nguyện của nhân vật sư Phổ Giác trong Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu:

"Đất nước này trong mấy chục năm nay đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc biến thiên đứt ruột nát lòng/: người chết như rạ/, máu tuôn lai láng/, của nhà tan nát/, thân thích lìa tan //(3). Lạy Trờư, Phật/, Thánh/, Thần/, lạy đức Phật từ bi cứu khổ cứu nạn/, thương xót chứng sinh thập loại chiếu ánh sáng thiên thần /để đem lại hòa khí cho quần chu tứ hảư, trút sạch não phiền/, rửa không thù oản/ để. cho những người còn sống yêu thương nhau/, trút bỏ hết nỗi ghen ghét/, uất hận /mà những người chết cũng được an vui nơi chín suối/, không phải lang

117

tháng nay đây mai đó/ ở đầu khe ngọn suối, ở điểm cỏ bóng cây/, ở cuối sông đầu chợ//. [10;

16]. (4)

Tất cả đều là những câu văn dài, gần với câu văn truyền thống. Câu (1) dài tới 124 chữ, gồm ba vế; mỗi vế bấy đầu bằng nhóm từ anh có thể. Đến câu (2), đoạn câu Hà Nội ngon là ngon từ được lặp lại đến ba lần, kết hợp với những đoạn câu- những thành phần mở rộng có tính liệt kê ở đằng sau. Sang câu (3), là việc lặp lại thành phần mở rộng để minh họa cho ý văn đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc biến thiên đứt ruột nát lòng. Điều đáng chú ý là cấu trúc của phần lặp lại khá cân xứng, theo tỉ lệ 4/4/4/4 làm cho bước văn trở nên nhịp nhàng, lời văn chậm rãi như một lời kể rành rọt về những điều đã được khắc cốt ghi xương. Và trong câu (4) là sự khai thác tác dụng của lối trùng vị ngữ kết hợp với việc lặp lại thành phần mở rộng, lặp từ ngữ ( ở, ở+ từ chỉ vi trí, nơi chốn (đầu, cuối, điếm cỏ bóng cây)) và việc vận dụng thành ngữ dân gian (nay đây mai đó). Cũng ương câu (4) còn có sự đan xen giữa những bước văn ngắn với những bước văn dài làm cho câu văn trở nên nhịp nhàng, cân đối mà không đơn điệu.

Minh họa cho kiểu câu dài, có kết cấu đăng đối của Vũ Bằng, chúng tôi xin dẫn ra hai ví dụ:

-"Ai không vui duyên hương lửa, ai ôm trong lòng vạn lý tình, ai tiễn người đi mãi mãi không về, ai nhìn khói sóng mà nghĩ đến người bạt ngàn mây nước, ai nhớ ai cùng xây mộng ước mơ nhưng vì trời chẳng chiều người mà phải gầy khúc đàn cho kẻ khác nghe, vào những ngày mưa Ngấu như thế, hỏi có đau không, hỏi có sầu không?" [5; 143].

"Các oan hồn, phảng phất u minh, nghe thấy tiếng mổ trong trời đất tối tăm tụ tập chung quanh chùa để nghe kinh: Có những kẻ trước đây lăm le thay đổi non sông nhưng gặp phải vận cùng thế khuất; có những kẻ màn lan trướng huệ gặp phen thay đổi sơn hà chỉ còn mảnh lá che thân; có những kẻ lâu đài phượng các bây giờ không còn ai bát nước nén nhang; có những kẻ vào sông ra bể, đem thân chôn giáp vào lòng kình nghê, có những kẻ mắc oan đoàn tù rạc, gửi mình vào chiếu xác một manh; có những kẻ chìm sông lạc suối, có những người gieo giếng, thắt dây; có những đứa trẻ lỗi giờ sinh phải lìa cha mẹ từ tấm bé, không có ai bồng bế xót xa..." [10; 23].

118

Những câu văn trên đều sử dụng biện pháp sóng đôi. Đó là biện pháp tu từ cú pháp dựa trên sự cấu tạo giống nhau giữa hai hay nhiều câu hoặc hai hay nhiều bộ phận của câu. Biện pháp này có tác dụng tăng cường giá trị giao tiếp và giá tri biểu cảm của lời nói; làm cho nhịp văn nhanh hơn, dồn dập hơn, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận nhịp đập của cảm xúc, của tâm trạng người cầm bút.

Có thể hiểu việc chọn những câu văn dài có kết cấu đăng đối làm phương tiện chủ yếu để diễn đạt của Vũ Bằng là việc làm nếu không phải là có ý thức thì cũng là việc làm thể hiện rõ sở trường, phù hợp với "tạng" người của ông. Với ngòi bút tài hoa, ông đã tạo cho những câu văn của mình một dáng vẻ cân đối, nhịp nhàng, uyển chuyển, khá duyên dáng. Nói như Văn Giá, đó là "những câu văn được bố trí theo cách đăng đối, hô ứng nhịp nhàng, mang đảng dấp biền ngẫu, đưa lại cảm giác du dương, đắm đuối..." [20; 82].

Ngoài ra, cũng ở cấp độ câu, Vũ Bằng còn hay sử dụng lối điệp kiểu câu. Có một số kiểu câu được Vũ Bằng hay dùng đi dùng lại. Thứ nhất là kiểu câu có kết cấu: Nhớ... tức là... , Đã nhớ ... là nhớ tất cả: nhớ... , Nhớ ... chính là nhớ.... Riêng trong Tháng Tư mơ đi tắm suối Mường (Thương nhớ mười hai) kiểu câu này được lặp lại đến 4 lần. Ví như:

- "Nhớ đến như thế, tức là nhớ lại cả một thiểu thời lúc còn mặc áo maga đi học, vừa đi vừa tung tăng chiếc giày da Đức Mậu lên trời vì đi giày nóng chân quá,, giẫm đất nó thảnh thơi, mát mẻ hơn" [5; 82].

Ở các chương khác của Thương nhớ mười hai kiểu câu này còn được lặp lại ít nhất là 5 lần nữa. Việc lặp lại kiểu câu này là cái cách để Vũ Bằng liệt kê, kể tên những kỉ niệm, những hĩnh ảnh, sự việc đã hằn sâu trong kí ức, tường tận đến từng chi tiết mà không làm cho câu văn trở nên nhàm vì đơn điệu; đồng thời đây cũng là một cách để tác giả nhấn mạnh, giảng giải một cách cặn kẽ ý nghĩa, nội dung của từ nhớ, nỗi nhớ. Sự lặp lại của kiểu câu trên làm cho nhịp văn trở nên nhịp nhàng, thong thả, nhiều khi lại gieo vào lòng người đọc cái cảm giác du dương, êm ái như đang nghe một điệu dân ca mềm mại, quen thuộc.

Kiểu câu: Nhớ từ (từng) ... nhớ đi, nhớ từ .... nhớ lai, nhớ từ ... nhớ lên, nhớ từ ... nhớ xuống hoặc thương mến từ ..thương mến lau yêu mến từ ... yêu mến xuống... cũng được Vũ Bằng sử dụng nhiều. Trong Thương nhớ mười hai ông viết:

Một phần của tài liệu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của vũ bằng (Trang 112 - 121)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(136 trang)