Nh ững câu văn dồi dào cảm giác

Một phần của tài liệu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của vũ bằng (Trang 107 - 112)

CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG DIỆU "TRONG VĂN XUÔI NGHỆ

3.2. Nh ững câu văn dồi dào cảm giác

Vũ Bằng là người sống thiên về trực cảm, nghĩ và viết bằng trực cảm nên, bằng sức biểu hiện của ngôn từ, những trang viết, câu văn của ông thường dồi dào cảm giác. Ở điểm này, Vũ Bằng có sự gặp gỡ với Thạch Lam tuy cách biểu hiện cụ thể của mỗi người mỗi khác.

Nếu đa số các truyện ngắn của Thạch Lam được bắt đầu hay xoay quanh một cảm giác, cảm tưởng nào đó (Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Đói, Dưới bóng hoàng lan...) thì hiện tượng này ở Vũ Bằng lại không phải là phổ biến. Qua khảo sát 25 tác phẩm được sáng tác từ 1945 trở về sau của Vũ Bằng, chúng tôi chỉ thấy có 3 truyện được bắt đầu như thế. Đó là cảm giác sướng “hẩng cả mặt lên”, "sướng tê đi giây lát" của mụ Nhiêu Lương khi "nghe thấy có người ở Hà Nam hồi cư, nói chuyện bỏ bom ở Kim Bồng, (...) nghe thấy cả làng Kẹo bị Tây đốt phá, có vô số đần bà bị hãm hiếp" (Giai đoạn mới). Đó là cảm giác ngạc nhiên vì "chưa từng thấy một chuyện táo tợn, lạ lùng như vậy" của Lưu Bình (Tiếp theo và hết truyện Lưu Bình Dương Lễ). Và đó còn là linh cảm "có một cái gì bất thưởng xảy ra" của ông Phú khi "trông thấy người đưa giấy đi xe đạp đến" (Người chứng).

Cũng như vậy, trong khi quá nửa truyện ngắn của Thạch Lam kết thúc bằng một cảm giác, cảm tưởng nào đó kiểu như: "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xổi. Không biết, như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiểu sáng một vùng đất nhỏ" [67; 152] hay: "Diên bàng hoàng và lạnh lẽo cả người, chàng hình như thấy một cái sức mạnh vô cùng đến chia rẽ Mai với chàng" [58; 208] thì trong 25 sáng tác được khảo sát của Vũ Bằng chỉ có Giai đoạn mới kết thúc theo kiểu này. Câu chuyện khép lại bằng trạng thái "giật mình đánh thót một cái" và những câu nói mê "Ấy, ông chủ gọi!", "Ấy, bà chủ gọi!" của bác Nhiêu Lương. Còn lại, xuyên suốt hầu hết các sáng tác dài và ngắn của Vũ Bằng là một dòng cảm giác chảy trôi miên man giữa hai bờ thực và mơ, hiện tại và quá khứ. Hiện tượng này, trong các sáng tác của Thạch Lam không phải là phổ biến, ta chỉ có thể bắt gặp ở rất ít tác phẩm như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Buổi sớm.

Trong Đất khách là dòng cảm giác pha trộn giữa u uất với tiếc nuối, ân hận. Vườn xuân tơi bời lá gieo, Người Hà Nội nhớ người Hà Nội là nỗi niềm xót xa trước cảnh lá rụng lìa cành,

"Bèo nổi, mây chìm" trong một xã hội thời chiến. Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội thực chất chỉ là những dòng cảm giác, cảm xúc miên man, không nguôi, không đứt của một kẻ

108

tha hương nặng lòng với quá khứ. Nói như Vũ Bằng "chỉ là đánh dấu những ấn tượng hiện ra trong trí óc những buổi mây chiều gió sớm, "sầu biệt li vơi sáng đầy chiều " thâu nhận được trong những khi lạc bước trên những hẻo đường chật ních những người bận rộn bên cạnh những ngoại kiều ăn mặc như phường chèo, nói líu lô buồn nỗi khó nghe!" [5; 16].

Vì thế, giống như Thạch Lam, đọng lại trong những câu văn, trang viết của Vũ Bằng khổng phải là những tư tưởng, tính cách mà là những cảm giác, cảm tưởng, những nỗi niềm.

Những cảm giác, cảm tưởng và nỗi niềm đó xuất phát từ "Con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là-gỗ mục" [5; 9] nên khi đến với độc giả, nó có sức mê hoặc lòng người rất lâu, rất sâu, đặc biệt là Thương nhớ mười hai - một trong những tác phẩm được coi là xuất sắc nhất của văn học hiện đại Việt Nam, một trong mười tác phẩm được nhà văn Triệu Xuân- người biên tập Tuyển tập Vũ Bằng chọn mang vào thế kỷ XXI. Để có thể viết được "những câu văn như cổ ma ám, từng dòng, từng dòng như bị một thế lực siêu nhiên vừa hành hạ, vừa chắp cánh cho tâm hồn, cho cõi lòng để bao nhiêu tài hoa biển thành niềm thương nhớ thấu trời, thấu đất!" [8; 5-6] cần phải tập hợp nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến sự gia công lựa chọn, sắp xếp những ngôn từ có khả năng gợi cảm giác ở nhiều cấp độ khác nhau của Vũ Bằng. Đặc điểm này khiến cho các sáng tác của ông có những điểm riêng từ cách lựa chọn, cấu tạo từ ngữ cho đến cách đặt câu, xây dựng hình ảnh so sánh...

Đọc truyện ngắn cùa Thạch Lam, người ta dễ dàng nắm bắt được không khí, cảm giác chung của toàn truyện khi mới "chạm" nhẹ đến đầu đề của nó: Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Dưới bóng hoàng lan, Đêm trăng sáng... Tình hình sẽ diễn ra tương tự nếu ta điểm qua một số sáng tác của Vũ Bằng: Đất khách, Vườn xuân tơi bời lá reo, Người Hà Nội nhớ người Hà Nội, Thương nhớ mười hai ... hay tên các phần trong Thương nhớ mười hai như: Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt; Tháng hai, tương tư hoa đào; Tháng tư, mơ đi tắm suối Mường... Và cũng mới chỉ điểm qua tên các sáng tác của hai người, chúng ta có thể thấy ngay phần nào sự khác biệt trong văn phong của hai tác giả ấy. Đọc văn Thạch Lam, người ta thường bắt gặp những lớp từ, những cụm từ đoán định để miêu tả những trạng thái, những hoài niệm mơ hồ, khó nắm bắt. Kiểu như:

"Liên thơ dại nhớ lại quãng đời nàng từ lúc lấy chồng. Bảy tám năm qua, mà Liên tưởng như lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người" [58; 135].

109

"Hình như có một chút nước mắt vừa rơm rớm ở mi nàng(...) Huệ không biết, nàng chỉ mang máng cảm giác một sự gì trong mát, tươi nõn" [58; 232].

Còn trong các sáng tác của Vũ Bằng, các từ diễn tả hoạt động tâm lí được lặp lại với một tần số rất cao: nhớ, yêu, thương,thèm, vui, nhớ lại, buồn... Gắn liền với các từ này thường là những trạng thái cụ thể của tâm lí. Vì vậy, tuy lặp lại với một tần số rất cao, chúng không hề gây cảm giác đơn điệu. Có chăng nó chỉ mở rộng phạm vi hoạt động của trạng thái tâm lí, mở ra nhiều tầng, nhiều lớp của cái "tôi" nội cảm phong phú, phức tạp của chủ thể trữ tình. Từ đó khắc tạc vào lòng người một nỗi nhớ, niềm thương đến quặn thắt, nhức nhối về một vùng văn hóa Bắc Việt, về nơi chôn nhau cắt rốn nghìn trùng xa cách. Chẳng hạn, cũng là nhớ nhưng ở mỗi ưường hợp là một nỗi nhớ cụ thể khác nhau. Trong Tháng tư mơ đi tắm suối Mường là

"nhớ lại cái tiếng ve kêu rền rền đặc biệt ở Hà Nội ngày xưa" [5; 87] "nhớ da diết, nhớ tê mê đến cái tiếng của con chim tu hú" [5; 92]. Đến Tháng tám, ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu là nỗi nhớ quay quắt "nhớ không cách gì quên được cái đêm Trung thu năm ấy, hai vợ chồng quấn quýt tơ hồng, cùng dắt tay đi qua cầu Bồ Đề sang bên kia sông, vào trong một cái quán, ngồi ăn miếng bánh đậu xanh, uống chén nước chè tươi..." [5; 180]. Qua Tháng Một, thương về những ngày nhể bọng con râu rồng "người ta cũng nhớ mưa rét tháng một ở quê hương mình đến thế là cùng" [5; 247].

Trong các sáng tác dài hơi, Vũ Bằng đã tận dụng mọi khả năng của phép so sánh, đặc biệt là các so sánh có từ nối như. Phép so sánh là một lối diễn tả truyền thống, thông dụng nhưng cũng chính là nơi người ta có thể tìm tíiấy^những dấu vết của thẩm mi thời đại hay của phong cách ngôn ngữ cá nhân. Phép so sánh thường làm cho sự vật, hiện tượng trở nên rõ ràng qua sự đối chiếu, sự tương đồng giữa cái so sánh và cái được so sánh. cấu trúc so sánh thường là xác định tương đồng về hai đối tượng: A (cái so sánh) và B (cái được so sánh), nối AB thường là các từ so sánh: như, tựa như, chừng như...

Ở giai đoạn trước, Thạch Lam và Hồ Dzếnh đều hay dùng lối so sánh. Trong những câu văn so sánh của Hồ Dzếnh, A (cái so sánh) thường là các vật thể vô tri hay những âm sắc vô hình, B (cái được so sánh) thường là tâm trạng buồn thương. Chẳng hạn:

110

-"Tôi lắng nghe từng tiếng bánh gỗ, long lở và rời rạc như cái thanh thể đã đến lúc tàn của nhà tôi. Thỉnh thoảng, một cơn gió thổi tạt qua cánh đồng, cùng lúc đem theo lên một cái gì như xa xôi, bát ngát" [21; 98].

Nếu các câu văn so sánh của Hồ Dzếnh thường gợi không khí ấn tượng thì những câu văn so sánh của Thạch Lam với lối kết cấu đặc biệt mà cả A và B đều là những cảm giác (những cảm giác này được cảm nhận bằng cả thân xác lẫn tâm linh), lại nghiêng về cảm giác, dồi dào khả năng gợi tả về cảm giác. Ví dụ:

-"Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối" [58; 222].

Đến Vũ Bằng, những câu văn so sánh trong các sáng tác của ông gần với nhữìig câu văn so sánh của Thạch Lam hơn. Chúng ta hãy quan sát hai ví dụ sau:

-"Một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng nghe như lòng mình say sưa một cái gì đó- có lẽ là sự sống!" [5; 18].

-"Những cánh ruộng gần bể lúc đổ đầy rươi: con cái bụng căng lên những trứng, thèm khát ái tình như giống vật đến ngày "con nước không thể ngồi yên một chỗ, phải nhở nha đi dạo chơi trong ruộng (và có khi quá chân đi cả ra sông); cũng như tiểu thư đi "bát phố" để kiếm kẻ giương cung bắn cho một phát tên ... tình" [8; 121].

Quả là về hình thức, những câu văn so sánh của Vũ Bằng khá giống những câu văn so sánh của Thạch Lam vì cả hai vế A (cái so sánh) và B (cái được so sánh) đều là những cảm giác nhưng đi vào chi tiết từng kết cấu, chúng ta thấy có đôi điểm khác biệt. Thứ nhất, vế B (cái được so sánh) trong câu văn Vũ Bằng, về số lượng từ thường nhiều hơn, như luôn nhằm giảng giải, lí giải cho rõ cái cảm giác, cảm nhận được nêu ra ở A (cái so sánh); trong khi đó, ở câu văn của Thạch Lam, những cảm giác nêu ra ở B thường ngắn gọn, có tính chất gợi mở.

Điểm khác biệt thứ hai là: câu trúc câu văn so sánh của Thạch Lam thường là "A như B"

còn cấu trúc câu văn so sánh của Vũ Bằng cũng có khi như vậy nhưng thường là "A như B, như B”. Với cấu trúc kiểu này, câu văn so sánh của Vũ Bằng có khả năng truyền tải nhiều thông tin hơn ngoài cái cảm giác mà vếA đã nêu ra. Có lẽ vì hai lí do trên nến cùng là những câu văn dồi dào khả năng gợi tả về cảm giác nhưng nếu những câu văn của Thạch Lam nghiêng về gợi hơn tả thì những câu văn so sánh của Vũ Bằng khó có thể nói một cách chính xác nó gợi hơn tả hay

111

tả hơn gợi. Chỉ biết rằng, đọc những câu văn so sánh của Thạch Lam, người ta dễ có cảm tưởng như đang đứng trước một bông hoa vừa hè nở còn nghe những câu văn so sánh của Vũ Bằng, người ta lại có cảm tưởng đang được chiêm ngưỡng một bông hoa ở độ thật là hoa với vẻ đẹp tròn trịa của nó.

Ngoài những câu văn so sánh kiểu "A như B", "A như B, như B", thỉnh thoảng ta còn thấy Vũ Bằng đảo trật tự cấu trúc so sánh thành "...như B, A". Ví như:

Cũng như đọc một áng văn hay, gấp sách lại mà còn dư âm phảng phất, còn suy nghĩ, còn trầm mặc, người ta ăn phở xong cũng đắn đo ngẫm nghĩ, rồi có khi đem ra thảo luận với anh em, nhất là các công chức và các tay thương gia rỗi thì giờ thì lại luận bàn kĩ lắm” [8; 60- 61].

Khi đảo trật tự cấu trúc câu so sánh, Vũ Bằng không chỉ phát huy tác dụng của phép so sánh mà ông còn nhấn mạnh, làm rõ hơn cái cảm giác, cảm tưởng ngõ hầu giúp người đọc "nói được lên một mối hoài cảm" "vẫn chất chứa ở bên lòng". Nghĩa là ông muốn kiếm tìm sự đồng cảm, đồng điệu nơi độc giả thông qua những câu văn, trang viết của mình. Con người tác giả, qua những trang văn, hiện lên cô đơn, đáng được cảm thông biết chừng nào.

Để tạo nên những câu văn giàu khả năng gợi tả các cảm giác, Vũ Bằng còn thường xuyên sử dụng biện pháp tu từ ngữ nghĩa đồng nghĩa kép. Đấy là biện pháp tu từ trong đó người ta dùng những từ ngữ đồng nghĩa hay gần nghĩa để diễn tả đầy đủ hơn những khía cạnh khác nhau của một hiện tượng, trạng thái để làm chính xác thêm nội dung cơ bản của phát ngôn và tăng cường hơn tính cảm xúc của nó. Trong Thương nhớ mười haiVũ Bằng viết:

"Cứ từ mười hai tháng tám là ngày bày cỗ, tôi sướng như điên, có đêm thao thức đến một hai giờ khuya không ngủ được. Đi hết hàng Thiếc xem những cái tàu bay tàu thủy, lại rẽ ra hàng Mã xem những con giống, quay xuống hàng Gai xem đèn và sư tử, rồi lại quành ra hàng Trống để đứng ngắm nghía xem nên về nhà để xin tiền mua cái trống nào, tôi oán ức bổ mẹ bắt phải lên giường đi ngủ...".

Ở ví dụ trên có hai nhóm từ đồng nghĩa, gần nghĩa: thao thức, không ngủ đượcđi hết, rẽ ra, quay xuống, quành ra. Sự sắp xếp những từ ngữ này liên tiếp nhau, kết hợp với điệp

112

từ xem làm cho người đọc dễ dàng thức nhận một cách trọn vẹn cái tâm trạng háo hức, vui sướng của đứa trẻ khi Tết Trung Thu đang về.

Để diễn tả tình cảnh đáng thương, tâm trạng bất an của người vợ hồi cư (Đất khách), Vũ Bằng cũng sử dụng những từ ngữ dồng nghĩa và gần nghĩa:

"Người vợ, yếu đuối hơn, ốm mấy phen tưởng chết, nhưng rồi lại khỏi. Mụ không rên rẩm, nhưng lòng chán ngán vô cùng" [20; 338].

Ngoài những ví dụ nêu trên, dọc theo các sáng tác của Vũ Bằng, chúng ta còn có thể gặp rất nhiều trường hợp tương tự như vậy. Có thể nói, nhờ việc thường xuyên sử dụng phép đồng nghĩa kép mà câu vãn của Vũ Bằng hiện lên có da có thịt hơn, dồi dào khả năng gợi tả cảm giác hơn.

Như vậy, câu văn của Vũ Bằng nghiêng về cảm giác. Những trang viết của ông không chỉ dồi dào sức gợi tả về cảm giác mà hơn thế nữa, nhiều khi, từ những cảm giác được gợi ra nó còn dẫn dắt người đọc về những vùng miền khác nhau của cõi nhớ- một cõi nhớ mênh mông đến vô cùng với một cái "tôi" nội cảm, đa cảm. Có lẽ, đấy là một trong những đặc điểm quan trọng, góp phần làm nên "những câu văn như có ma ám" ( Triệu Xuân), có sức hút mê hồn với những ai đã từng đọc văn Vũ Bằng, đặc biệt là Thương nhớ mười hai.

Một phần của tài liệu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của vũ bằng (Trang 107 - 112)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(136 trang)