Không gian b ị giam lỏng (Huế)

Một phần của tài liệu đặc điểm nghệ thuật thơ phan bội châu (Trang 60 - 66)

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ PHAN BỘI CHÂU

2.1. KHÔNG GIAN NGH Ệ THUẬT

2.1.4. Không gian nhà tù

2.1.4.2. Không gian b ị giam lỏng (Huế)

Năm 1926 khi trở về thăm quê nhà, Phan Bội Châu đến thăm Bến Thủy. Một số thanh niên trong đó có ông Tôn Quang Phiệt mời cụ chơi thuyền trên sông Lam, cụ hứng khởi viết bài thơ tặng các bạn trẻ :

Duyên nợ mặn mà non nước cũ Tình cờ gặp gỡ tháng ngày xuân Còn trời còn đất còn đây đấy Ai nấy chia nhau gánh một phần.

(Tặng thanh niên)

Hình ảnh "con thuyền" đã xuất hiện trong thơ Phan Bội Châu, thời kỳ ông già Bến Ngự.

Sau bài thơ "đi chơi thuyền" nói trên là hàng loạt bài thơ về "con thuyền" : Con đò trên sông;

61

Thuyền đi đêm chơi rong I,II; Đêm trăng lên núi Ngự Bình I, II; Trong cơn bệnh thuyền đậu cây cưa; Thuyền đêm trời lụt tứ tuyệt; Nói chuyện với cây cưa bên thuyền; Tặng cô bé gái bơi xuồng; Đậu thuyền dưới chùa Thiên Mụ đụng trời mưa trách trời; Đọc báo Sông Hương; Một mình ngồi thuyền; Ngồi thuyền đụng trời mưa trách trời... Hình như mọi sinh hoạt hằng ngày đều ở dưới chiếc thuyền, nếu không sao "thuyền" xuất hiện nhiều hơn "nhà"

như thế ? Toàn bộ thơ ông già Bến Ngự "nhà" chỉ được một vài câu : Nhà dột ba gian thành nước ngập

(Trận mưa thình lình) Nhà trắng ba gian chùa vắng ngắt!

(Tự trào)

Xuất hiện không gian "con thuyền" kể ra rất phù hợp với tâm tình "ngổn ngang trăm mối"của ông già Bến Ngự. Thay cho đôi chân hoạt động khắp nơi trước đây của nhà cách mạng là con thuyền xuôi ngược cùng sông Hương, núi Ngự.

Cụ Phan, như chúng ta biết, đang hoạt động sôi nổi, bỗng chốc bị bắt cóc đưa về nước giam lỏng. Để thích nghi với hoàn cảnh tù túng, chật hẹp bất đắc dĩ đó, cụ đã tạo ra không gian đặc biệt này trong thơ. "Con thuyền " là sự hóa thân của nhà thơ trong hoàn cảnh "mới" .

"Thuyền" ngược về kí ức "Quản bao vào lộng lại ra khơi", "Cỡi gió xông pha làn sổng bạc".

"Thuyền" là cuộc đời gian nan hiện tại, có khi lũ lụt toan cướp thuyền:

Liều gan chống thử cùng mưa gió Thua được chờ xem lúc cuối cùng.

Trong hoàn cảnh nào, con thuyền - chiến sĩ cũng hiên ngang, bất khuất : "chiếc xuồng xuống ngược lại lên xuôi".

Không gian "con thuyền" đã góp phần làm nên tiếng nói riêng trong thơ Phan Bội Châu thời kỳ ông già Bến Ngự. Hình tượng "con thuyền" xuất hiện 53 lần trên 678 bài thơ nôm sau 1925, chiếm tỉ lệ 7,82% (Phan Bội Châu toàn tập, tập V, Chương Thâu, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990) và sự vận động trong khoảng không gian ấy đã nói hộ tâm trạng người anh hùng thất thế.

Thất thế mà vẫn đẹp !

62

Người ta nói Huế "mưa nhiều lắm sương khói". Tố Hữu từng miêu tả những cơn mưa

"Xối xả trắng trời Thừa Thiên". Trong thơ Phan Bội Châu không gian "mưa" cũng là thành tố nghệ thuật đáng chú ý.

Trước hết, nhà thơ miêu tả những cơn mưa hiện thực : Trận mưa thình lình: Ông mưa ông chẳng bảo cho hay

Bỗng chốc mê man bốn bề dầy Nhà dột ba gian thành nước ngập Rèm thưa mấy lớp thấy rồng vây.. .

Phải chăng đây cũng là cách nói ẩn dụ, nhà cách mạng thình lình bị giặc bắt cóc..."Ông trời" cũng thường mưa đột ngột như vậy !Mưa tự nhiên ào xuống nào có sự chuẩn bị gì đâu ? Nhà cửa khang trang, vững chắc không nói làm gì, đằng này nhà của Phan Bội Châu " ba gian thành nước ngập" tránh sao khỏi rắc rối. Mưa hiện thực thấm dần vào tâm trạng. Nhà thơ trách

"trời" cay nghiệt với mình, cả cuộc đời bôn ba lặn lội vẫn không thành, cuối đời phải chịu cảnh khốn đốn. Suy cho cùng tình cảnh của người dân mất nước vốn dĩ đều như thế!

Mưa lớn bên ngoài chính là mưa lớn trong lòng. Bài thơ Sau trận bão Qui Nhơn thể hiện tình cảm đối với nhân dân của nhà chí sĩ thống thiết nhưng bất lực:

Họa kiếp dân lành đâu đến nỗi

Thường năm thường gặp chuyện tai ương !

Mưa thành bão, bão thành lụt: "Gió đêm cuốn bể dựng non triều" (Thuyền đêm trời lụt),

"Gió dập mưa dồn dơn tứ tung" (Phu xe than trời mưa), "Bùn lẩy choáng cả trăm đường ngã"

(Phu xe than trời mưa)... Không gian hiện thực, chìm vào không gian tâm trạng, nhà thơ chứa chan cảm xúc "Ôi ! Lũ con đen lút tới cùng"... Tuy không gian "mưa" làm cho hiện thực trở nên u ám nhưng ta vẫn thấy cái nhìn vận động biến đổi hợp với qui luật thiên nhiên "Cơ trời xoay chuyển mưa rồi nắng" của nhà thơ. Không gian "mưa" trong thơ ông già Bến Ngự xuất hiện 157 lần trên 678 bài thơ nôm sau 1925, chiếm tỉ lệ 23,16% ( Phan Bội Châu toàn tập, tập V, Chương Thâu, Nxb Thuận Hoa, Huế, 1990) đã nói hộ tâm trạng bức bối muốn gào thét dữ

63

dội của nhà thơ. Những cơn mưa cũng chính là sự hóa thân của ông già Bến Ngự để bày tỏ tình cảnh lầm than của dân tộc mà bản thân cụ bế tắc.

Nay ổng khoanh cẳng bó tay

Chắc ông rách mắt chau mày nghiến răng.

(Tiêu khiển ngâm)

Những ngày sống ở Huế, tâm trạng Phan Bội Châu luôn bị nỗi cô đơn giằng xé:

Dưới đèn ngẫm nghĩ gương kim cổ Mình nói mình nghe khóc lại cười

Cái cảnh "trăng gió nhốt ba gian" kia mới ngột ngạt làm sao ! Nhà thơ du thuyền trên sông Hương vẫn bị "đám mây vô lại" dòm ngó, cô đơn càng cô đơn, bức bối càng bức bối.

Hình như ông già Bến Ngự lúc này nỗi niềm không được chia sẻ, không có người để tâm sự.

Và cũng để đối phó với tình cảnh nghiệt ngã, không gian "trăng" tràn ngập khắp thơ Phan Bội châu.

Các bậc nho sĩ xông xáo với đời hay ẩn dật vui thú điền viên đều thích ngắm trăng, thưởng nguyệt. Nguyễn Trãi hòa mình cùng trăng: "Đêm trăng hớp nguyệt, nghiêng chén".

Nguyễn Khuyến vuốt ve, chiu chuộng trăng: "Song thưa để mặc bóng trăng vào"... Thú chơi tao nhã ấy đã mang lại cho văn chương trung đại vẻ đẹp riêng. Phan Bội Châu với tình cảnh hiện tại chẳng còn xông xáo hoạt động, cũng chẳng muốn làm ẩn sĩ ưu thời mẫn thế khi tiếng súng giặc nổ khắp nơi...Hai tâm trạng đó dường như đan xen vào nhau một cách không rõ ràng đã tạo nên không gian "trăng" đầy nỗi bâng khuâng, vương văn đến lạ lùng.

Nhà thơ cũng xem"trăng" như người bạn tri kỷ rất cổ điển."Trăng ơi ! Trăng có biết cho chăng"(Hỏi trăng) "Trăng ơi /Trăng có nhớ mình chăng" (Lại thấy trăng) "Trăng ơi !Trăng há vô tình đặng" (Hoa Sen).Trầng là người bạn thủy chung ấm lạnh cùng nhà thơ trong những đêm trường khắc khoải. Không ai có thể cấm trăng đến với nhà thơ và nhà thơ đến với trăng.

Họ tự nguyện, thậm chí thân mật, suồng sã như thách thức hoàn cảnh : Vì yêu nguyệt phải đùa cùng nguyệt

(Lại thấy trăng)

64

Trăng và người có cùng tâm trạng, đó là nỗi cô đơn rất đáng sợ : "Lồng gương sao lẻ bóng cô hằng" (Hỏi trăng); đó là nỗi lòng thời thế : "Năm canh nguyệt ủ ê" (Đi thuyền đêm);

đó là sự đen bạc lừa phỉnh của cuộc đời: "Soi lòng này có nguyệt năm canh" (Đêm nghe người hàng xóm gảy đàn). Lắm lúc chán ngán trần thế , nhà thơ muôn tìm đường lên với trăng :

"Nguyệt ơi ! Nếu có đường lên Nguyệt" (Ướm trăng) ... Sự thâm nhập vào nhau giữa người và trăng, trăng và người thể hiện nỗi niềm khao khát tự do cháy bỏng. Nhà thơ muốn được là trăng để tỏa ánh sáng mát mẻ khắp hang cùng ngõ hẻm tối tăm. Chất lãng mạn vì thế trở nên tuyệt vời khi nhà thơ hòa vào thiên nhiên "trăng" nói lên chí khí, hoài bão trong hoàn cảnh trớ trêu nghiệt ngã đến vậy.

Nhưng Phan Bội Châu là người trần thế, chứa đầy lòng trắc ẩn đối với cuộc đời, không thể "im ỉm" như nàng trăng trên cao. Có lúc nhìn trăng, ngắm trăng, tâm trạng nhà thơ bị kích động mạnh. Nhà thơ buộc phải kêu lên:

Biết chăng chẳng biết hỡi dì Hằng

(Thấy trăng cảm tác) Dì gió nàng trăng khéo ác trêu

(Đêm thức một mình)

Không thể nhẹ nhàng với "trăng" mãi vì đó là thái độ gượng gạo, thậm chí giả dối. Nhà thơ mang tâm trạng cô đơn, bức bối muốn vỡ tung thì "trăng" tránh sao khỏi vạ lây. Nhà thơ gọi "trăng" bằng "" như ghen hờn xa lạ, gọi "trăng" bằng "" nặng nề khó chịu, kịch liệt hơn, đanh đá hơn gọi "trăng" bằng "mụ" : "Với một mụ cung Quảng Hàn cùng trò chuyện"

(Bức thư gửi nàng trăng).Có lúc thật quá quắt: "Tức với trời lên đá nguyệt chơi" (Đêm không ng). Ông già Bến Ngự khi uyên bác lịch lãm hết chỗ chê, khi trở thành tay điếc dóng, khó tính hết chỗ nói! Mang những tâm sự phức tạp hằng ngày vào thơ , "trăng" vì thế đa dạng phong phú , cổ điển mà hiện đại. Nhà thơ sử dụng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa và linh hoạt biến hóa trong việc dùng đại từ nhân xưng để gọi trăng theo cách pha trò ngộ nghĩnh, nghịch ngợm, đáng yêu mà trước đây chưa hề thấy trong văn chương cổ điển : dì trăng, mụ trăng, cô Hằng, chị Hằng, mađam Hằng. . . để sau này Tản Đà thừa kế chất ngông ấy thành thạo hơn:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi

65

Trần thế em nay chán nữa rồi Cung quế có ai ngồi đó chửa Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

(Muốn làm thằng Cuội)

Có thể nói, hai phong cách cổ điển và hiện đại đã hòa trộn trong ngôn ngữ tài hoa Phan Bội Châu. Nếu Nguyễn Thượng Hiền từng được mệnh danh là : "dấu gạch nối giữa hai thế hệ, hai giai đoạn văn học cổ và hiện đại" thì Phan Bội Châu chỉ với không gian "trăng" đã có thể khẳng định cụ xứng đáng là "chiếc gạch nối" ấy. Những dẫn chứng trên rút ra từ 131 lần thấy

"trăng" trên 678 bài thơ nôm sau 1925, chiếm tỉ lệ 19,32% (Phan Bội Châu toàn tập, tập V, Chương Thâu, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990) . Con số đó chứng minh không gian "trăng" cũng là không gian tâm trạng chi phối mạnh mẽ thơ ông già Bến Ngự.

Thời kỳ giam lỏng ở Huế, hình ảnh "chiếc bóng" của chính mình cũng nhiều lần xuất hiện trong thơ Phan Bội Châu. Văn học của cả chín thế kỷ trước đó, ít khi ta bắt gặp "chiếc bóng"

của các nhà thơ có chí khí, có hoài bão ngang ười. Nguyễn Trãi mượn Tùng nói "tái đống lương cao". Nguyễn Công Trứ mượn "ngang dọc" nói "Nợ tang bồng vay trả, trả vay"...Văn học cần người hành động. Dần dần xã hội phong kiến mất đi sự tôn nghiêm, người quân tử đi vào chốn ẩn nhẫn chờ thời. Có tâm sự buồn thương da diết nhưng ta cũng chưa bắt gặp sự đối diện với chính mình để "tự phán". Có chăng chỉ mới là "chiếc bóng của Đạm Tiên" nói hộ tâm trạng Kiều (Nguyễn Du).. Thế nhưng Kiều chưa phải là người đã lo việc lớn!

Phan Bội Châu mang "chiếc bóng" vào thơ, nhưng đáng lưa ý giai đoạn thơ trước 1925 tuyệt nhiên không thấy chiếc bóng nào. Từ năm 1930 trở đi "chiếc bóng" luôn là sự chia sẻ :

"Một mình với một bóng thâu canh" (Đêm đông đi thuyền), "Chiếc gối ai kia bóng dật dìu"

(Đêm nghe tiếng mưa rơi), "Một ngọn đèn khuya dựa bóng khêu", "Khêu đèn khuây bóng bóng làm ngơ" (Đêm một mình thức), "Một mình một bóng khóc rồi cười" (Vô đề), "Thôi thời với bóng tự mình vân vi" (Đêm trăng hỏi bóng)... "Chiếc bóng" là hình tượng không gian tâm lý hiện đại. Có thể thấy từ Nguyễn Du qua Phan Bội Châu là quá trình phát triển biện chứng tâm lý. "Cái tôi" ngày một khẳng định rõ nét. Hơn nữa đọc những câu thơ có hình ảnh "chiếc bóng"

của Phan Bội Châu làm ta suy nghĩ nhiều đến văn chương phương Tây. Phải chăng trong quá

66

trình đón đọc "Tân thư" (dù chỉ là của Trung quốc hay Nhật Bản) ánh sáng ấy đã rọi đến "cửa Khổng sân Trình", mặc dù còn yếu ớt nhưng Phan Bội Châu đã "hứng" được nó. Nói dễ hiểu

"chiếc bóng91 như một nỗi ám ảnh từ trong vô thức khiến nhà thơ bộc lộ ra thành hệ thống như vậy. "Chiếc bóng" xuất hiện 42 lần (trong 72 bài thơ "đếm", chiếm tỉ lệ 58,33%) trên 678 bài thơ nôm, chiếm tỉ lệ 6,19% (Phan Bội Châu toàn tập, tập V, Chương Thâu, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990) đã làm cho thế giới nội tâm cân bằng với thế giới thực tại.

Tóm lại, không gian nghệ thuật: "con thuyền; mưa; vầng trăng; chiếc bóng" phản ánh nỗi trăn trở không nguôi của nhà thơ, trăn trở vì phải chịu cảnh cô đơn tù túng, trăn trở vì phải xa lìa đồng bào, đồng chí, xa lìa phong trào cách mạng...Nhưng một nỗi ưăn trở lớn hơn gấp nhiều lần xoay quanh con đường cách mạng, con đường cứu nước mà Phan Bội Châu đã chọn đi. Cụ không khác gì một khách bộ hành đơn độc, từ phong trào cần vương đến cách mạng dân chủ tư sản và lăm le dợm bước lên thềm chủ nghĩa xã hội. Nhà cách mạng Phan Bội Châu trải qua nhiều thử thách : Một Duy tân hội, một Việt Nam Quang phục hội, một Việt Nam Quốc dân đảng...nhưng vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu thời đại. Cụ Phan là nhân vật có tư tưởng, có hành động tiên phong, nhưng nhiều khi tiên phong thì không tránh khỏi bi kịch.

Một phần của tài liệu đặc điểm nghệ thuật thơ phan bội châu (Trang 60 - 66)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(157 trang)