Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ PHAN BỘI CHÂU
2.3.3. Nh ịp điệu và vần
+ Nhịp trong các bài thơ Đường luật
Trước 1925, các bài : Xuất dương lưu biệt ; cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông ; Thơ viết trong tù núi Quan Âm, Quảng Châu ; Khốc chân tướng quân ; Cảm tác khi ở nhà bà sư Thái; Tặng Trần Quý Cáp.. . đều là nhịp chuẩn 4/3 rắn rỏi:
Giang sơn tử hỉ/ sinh đồ nhuế Hiền thánh liêu nhiên / tụng diệc si
(Xuất đương lưu biệt) (Non sông đã chết /sống thêm nhục Hiền thánh còn đâu /học cũng hoài)
(Tôn Quang Phiệt dịch)
"Non sông đã chết" cách nói nhân hóa sinh động, gây ấn tượng mãnh liệt. "Non sông" ví như một sinh mệnh, thật đau lòng ! Nhiều nhà nho thức thời đã nói lên nỗi nhục của người dân mất nước nhưng chưa ai có cách nói thống thiết và triệt để đến thế. Đem sự vinh nhục của cá nhân để nói về sự vinh nhục của đất nước. Quả là người yêu nước vĩ đại.
114
"Hiền thánh còn đâu", cách nói mới mẻ, táo bạo. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan mà chui đầu vào con đường khoa cử phỏng có ích lợi gì ? "học cũng hoài". Bởi lẽ như thế khác nào làm tay sai cho giặc : "non sông đã chết /học cũng hoài".
Hai câu thực của bài Khốc chân tướng quâncũng cấu trúc theo nhịp thơ 4/3.
Trấp niên thương kiếm/sơn hà khí, Bách chiến phong vân /phụ tử binh.
(Gươm mấy chục năm / hồn sông núi, Gió mây mấy trận / lính cha con.
(Kiều Văn địch)
"Gươm mấy chục năm",tinh thần chiến đấu của cha ông đã trở thành niềm tự hào bất tận.
Giặc xâm lược, trong hoàn cảnh đầu thế kỷ XX, đã thổi bùng lên ngọn lửa căm hờn. Người Việt Nam bất luận ai cũng đều có trách nhiệm giữ nước.
Trong quá trình chiến đấu chống xâm lược, dân tộc ta luôn phát huy tinh thần đoàn kết là sức mạnh vô địch. Viết Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi từng nhắc "Tướng sĩ một lòng phụ tử/
hòa nước sông chén rượu ngọt ngào", nay Phan Bội Châu dùng "phụ tử binh" cũng là sáng tạo lại quá khứ một cách nghệ thuật và thuyết phục.
Sau năm 1925, nhịp thơ trong các bài Đường luật vẫn là nhịp chuẩn 4/3 Trăm năm cuộc bụi/dâu hay bể
Một tấm lòng son / sắt với đinh (Hồn cậu trả lời) Trời ngẩn ngơ say / người chếch bóng
Gió thờ ơ mát / nguyệt tròn vòng
(Đêm trăng lên núi Ngự Bình) Nắng nung cỏ biếc /màu xanh nhạt
Gió xác hoa hồng/ sắc đỏ phai
115
(Đầu mùa hè)
Đây là những vần thơ tâm trạng nhưng là tâm trạng hiên ngang của ông già Bến Ngự.
Tinh thần ấy đã truyền cho thế hệ thanh niên khí thế tươi ứẻ, phấn khởi.
+ Nhịp điệu của những bài Hát nói:
Nhịp của những bài Hát nói tiêu biểu như; Chơi xuân ; Bài ca chúc tết thanh niên ; Năm hết tết đến ; Mừng tết; Năm môi 1936 ; Mừng Đông Dương tạp chí...đều phóng khoáng và ngang tàng .Thể hiện ở việc nhà thơ bố trí các câu thơ dài ngắn khác nhau rất sinh động : có câu chỉ 2 từ, 3 từ, 4 từ ; có câu dài đến 10 từ, 11 từ, 12 từ... Đặc biệt ỏ những bài Hát nói, nhà thơ còn tâm đắc trong việc sử dụng hệ thống động từ sắc mạnh để gây thêm khí thế; hoặc sử dụng câu tăng tiến góp phần tạo không khí hăng say, phấn khởi. Chơi xuân gồm các động từ thể hiện những hành động lớn lao phi thường của người anh hùng kiệt xuất: "nắm địa cầu",
"tủa tám cõi", "ném vào" , "đập toang" ... Bài ca chúc tết thanh niên, nhà thơ lại sử dụng các động từ thông thường ương đời sống, trong sinh hoạt hàng ngày : "Dậy ! Dậy ! Dậy", "mở mắt thấy", "xúm vai vào" , "đi cho êm", "đứng cho vững", "trụ cho gan", "Đừng ham chơi, ham mặc, ham ăn", "dựng gan óc", "quyết đánh tan", xối máu nóng'" .. nhưng tác dụng động viên cụ thể và xác đáng hơn. Quần chúng dễ tiếp thu, dễ giác ngộ vi đó không phải là những giáo điều kho khan mà rất gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ. Năm hết tết đến xuất hiện hàng loạt câu tăng tiến : "càng... càng", "chưa ... chưa" tạo cho lời thơ tráng kiện và phơi phới.
... Xa chưa ray mã chưa tới, pháo chưa bay
... Da chưa mồi, đầu chưa bạc, tai chưa điếc, mắt chưa mù ...
... Tuổi càng cao, vai càng nở, lưng càng to.. .
Đồng thời ở những câu tăng tiến như thế này, người ta còn thấy được một tương lai tươi sáng, rộng mở trước mặt. Đó cũng chính là giá trị tư tưởng mà nhà thơ đang muốn nói ương ngày "năm hết tết đến" theo kiểu "tống cựu, nghênh tân". Mừng tết là kết quả thu được từ những tưởng tượng nghệ thuật vừa nêu, nhà thơ bố trí cho câu chẵn xuất hiện dầy đặc : 7,8, 7,8, 7,8, 8,8, 7,8, 6,8, 8,8, 6,8, 6 . Nhịp thơ qua đó mà ưở nên "thư thả, thoải mái". Tâm sự tù túng và ngột ngạt của ông già Bến Ngự dường như được trải rộng ra với bầu không khí vào xuân ấm áp .
116
... Mừng lúc gặp tam đương thái thái Cờ gió đông phất phới trước thềm hoa
Đàn chim xanh, cất tiếng nhặt khoan Xin giục khách mơ màng ngồi dậy nói.. .
Tóm lại, viết Hát nói, tác giả thường tập trung vào chủ đề "Xuân", có lẽ trước hết đo nó phù hợp với chất ngang tàng, phóng túng của thể thơ. Sau đó cũng là mảnh đất nghệ thuật mà tác giả chắt chiu gửi gắm bao kỳ vọng của một danh sĩ yêu nước, tài hoa.
+ Nhịp thơ lục bát và song thất lục bát
Gồm những bài thơ chính như : Hải ngoại huyết thư ; Gọi hồn quốc dân ; Ái quốc ; Ái chủng ; Ái quần ; Bài từ năm mới ; Khuê phụ thu hoài. . . vẫn là nhịp chuẩn của thể Lục bát và Song thất lục bát: nhịp chẵn ở câu lục, câu bát; nhịp 4/3 ở câu thất. Nhưng điểm đáng chú ý về mặt nghệ thuật của thể thơ này là tác giả có ý thức tạo nên sự đối xứng 4/4 trong câu bát.
Chẳng hạn, trong Hải ngoại huyết thư:
. . . Gió mây phang lặng, dạ sầu ngẩn ngơ . . . Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau . . . Trời sa nước mắt, bể troi ngược dòng Trong Ái quốc:
. . . Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao . . . Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau.
Trong Ái quần:
... Ông cha một họ, anh em một nhà ... Chen vai ưu thắng, ra tay cạnh tồn.
Trong các bài Gọi hồn quốc dân, Bài từ năm mới, Khuê phụ thu hoài..,.cũng không hiếm các trường hợp tương tự.
117
Những dẫn chứng trên cho thấy, nhà thơ đã thừa kế giọng điệu "biền ngẫu" chặt chẽ của văn thơ yêu nước ứuyền thống qua Hịch tướng sĩ, Cáo bình Ngô, Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc....cần nói thêm " biền ngẫu" chỉ xuất hiện trong văn xuôi trung đại. Với Phan Bội Châu, ông đã vận dụng cách cấu trúc này cho thơ. Đó chính là nét độc đáo, cuốn hút người đọc, tạo cho lời thơ cân đối, nhịp nhàng uyển chuyển, dễ nhớ, dễ thuộc. Tác dụng tuyên truyền cũng trở nên sâu rộng hơn.
Đối với câu lục, Phan Bội Châu sử dụng nhịp 3/3 (nhịp lẻ) tạo âm điệu gân guốc, khí thế:
... Chớ cậy thế, chớ tham tài ... Chớ ganh khí, chớ khoe công
(Ái quần) ... Bốn nghìn năm, cối viêm phương
... Tài anh liệt, nối đời sinh (Ái chủng) ... Cá trên thớt, thịt đầu dao ... Người dân ta, của dân ta
(Hải ngoại huyết thư)
Không chỉ đến Phan Bội Châu, thơ lục bát và song thất lục bát mới có biến thể nhịp này.
Trong văn học trung đại thế kỷ XVII , XVIII đã có nhưng khi ấy nó chỉ để bộc lộ niềm u uất cá nhân:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
(Truyện Kiều - Nguyễn Du) Lạnh lùng thay, giấc cô miên
(Cung oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều) Đến Phan Bội Châu, cấu trúc ấy đã chuyển tải thành sự phẫn nộ của dân tộc, thành khí thế của dân tộc. Và cũng nhờ những dòng thơ nhịp 3/3 sáng tạo này mà thơ tuyên truyền Phan Bội Châu rất giàu cảm xúc .
118 + Vần
Trong thơ Đường luật, Hát nói của Phan Bội Châu, vần "i" chiếm số lượng đáng kể. Nó bộc lộ con người hành động và cá tính kiên quyết của Phan Bội Châu.
Xin không bàn sâu đến lĩnh vực ngữ âm vì người viết chỉ muốn lưu ý giọng điệu mạnh mẽ qua những câu thơ có vần "i" của ông già Bến Ngự.
Sinh vi nam tử yếu hi kì Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
...
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
(Xuất dương lưu biệt) Quân bất kiến Nam xuân tự cổ đa danh sĩ
Đã chơi xuân đừng quản ngại chi chi (Chơi xuân) Tráp niên thương kiếm sơn hà khí Bách chiến phong vân phụ tử binh
(Khóc chân tướng quân) Không ngồi không đứng cũng không đi
Cũng giống điên, mà cũng giống si...
(Cười mình)
"Sinh vi nam tử yếu hi kì" là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả. Câu thơ mạnh mẽ tập trung vào vế "yếu hi kì". Nhà thơ tự hào mình là đấng nam nhi phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ. Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thể sống một cách thụ động, vô vị nhạt nhẽo. Với vần "i" của "yếu hi kì” câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở tài năng của mình có thể làm nên sự nghiệp to lớn.
119
Thông thường cách gieo vần trong thơ Hát nói đủ các kiểu : vần bằng, vần trắc, vần cước, vần yêu. Đa số những bài Hát nói của Phan Bội Châu sử dụng vần trắc. Chính nó cũng góp phần làm cho giọng điệu thơ Phan Bội Châu thêm rắn rỏi. Chơi xuân, Bài ca chúc tết thanh niên, Năm hết tết đến là những ví dụ cụ thể.