Khái niệm từ láy trong tiếng Việt

Một phần của tài liệu KHẢO SÁT TỪ LÁY TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI (XUẤT BẢN TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1980 ĐẾN NAY) (Trang 22 - 28)

CHƯƠNG 1. CƠ SƠ LÝ LUẬN VỀ TỪ LÁY TIẾNG VIỆT

1.1. Khái niệm từ láy trong tiếng Việt

Là một vấn đề khá nổi bật trong Việt ngữ học, từ láy, với một số lượng phong phú trong kho từ vựng, đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích dưới nhiều góc độ. Xuất phát từ những quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, có thể thấy riêng về mặt tên gọi của khái niệm này cũng đã có nhiều khác biệt. Nhà nghiên cứu Hà Quang Năng trong nghiên cứu của mình đã tổng hợp về các cách gọi từ láy: “từ phản điệp (Đỗ Hữu Châu, 1962), từ lắp láy (Hồ Lê, 1976), từ lấp láy (Nguyễn Nguyên Trứ, 1970), từ láy âm (Nguyễn Tài Cẩn, 1975; Nguyễn Văn Tu, 1976), từ láy (Hoàng Tuệ, 1978; Đào Thản, 1970; Hoàng Văn Hành, 1979, 1985; Nguyễn Thiện Giáp, 1985; Đỗ Hữu Châu, 1981, 1986; Diệp Quang Ban, 1989) v.v…” [19; tr. 7]. Cách gọi “từ láy” được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng và đến nay trong các sách giáo khoa phổ thông cũng áp dụng tên gọi này.

Các định nghĩa khác nhau về từ láy cũng được trình bày trong các công trình và bài viết nghiên cứu khác nhau của các tác giả. Nhìn chung có hai hướng quan điểm phổ biến được đưa ra:

- Hướng thứ nhất: Coi láy cũng là ghép

- Hướng thứ hai: Coi láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hóa.

Nhìn nhận theo hướng quan điểm thứ nhất có các nhà Việt ngữ học như Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Tài Cẩn, Hồ Lê,…

- Trong “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam” (1963), hai tác giả Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê có viết: “Chúng ta có nhiều từ hai âm, cũng có từ ba âm và từ bốn âm. Tiếng đôi, tiếng ba, tiếng tư ta gọi là từ kép. Trong ngôn ngữ của ta, từ kép hai âm nhiều nhất, từ kép ba, bốn âm ít hơn. Dù hai, ba hay bốn âm, từ kép cũng chỉ diễn tả ý đơn giản như từ đơn” [4; tr. 62]

- Theo cách nhìn của Nguyễn Tài Cẩn: “Từ láy âm là loại từ ghép trong đó, theo con mắt nhìn của người Việt hiện nay, các thành tố trực tiếp được kết hợp với nhau chủ yếu theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm được thể hiện ra ở chỗ là các thành tố trực tiếp phải có tương ứng với nhau về hai mặt: mặt yếu tố siêu âm đoạn tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính giữa vần và âm cuối vần…)” [1, tr. 109]

- Hồ Lê coi từ láy là “một loại từ ghép thực bộ phận gồm hai từ tố - một từ tố vốn là nguyên vị thực và một từ tố vốn không phải là nguyên vị thực có quan hệ lắp láy với nhau. Có thể gọi nó là từ ghép thực bộ phận lắp láy, hoặc gọn hơn là từ ghép lắp láy” [16, tr. 261]

- Nguyễn Văn Tu đã nêu: “Sở dĩ chúng tôi gọi chung những từ láy âm là những từ ghép vì thực chất chúng được tạo ra bởi một số từ tố với bản thân nó không bị biến âm hoặc bị biến âm. … Từ láy âm được tạo thành bằng việc ghép hai từ tố hoặc hai âm tiết có quan hệ về ngữ âm trên cơ sở láy âm, trên cơ sở láy lại bản thân cái âm tiết chính hoặc từ tố chính” [22, tr. 68]

Nhóm các nhà nghiên cứu chung hướng nhận định láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hóa, tiêu biểu là Hoàng Tuệ, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện Giáp.

- Với quan điểm coi láy và ghép là hai phương thức cơ bản để cấu tạo từ tiếng Việt, nhà nghiên cứu Hoàng Tuệ đưa ra ý kiến: ““Láy” có lẽ chớ nên xem là “có quan hệ ngữ âm” giữa các âm tiết một cách chung chung, mà nên hiểu là “láy” khi có một sự hòa phối ngữ âm giữa những yếu tố tương ứng của các âm tiết, đó là một sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa” [23, tr. 23]. Theo đó, từ láy được xem xét ở về cả cấu trúc và cả cơ trình cấu tạo của nó nữa. Tác giả có nói về mối tương quan âm nghĩa nhất định trong từ láy. “Tương quan ấy có tính chất tự nhiên, trực tiếp trong trường hợp những từ như gâu gâu, cu cu… (…); đó là những tiếng vang thực sự. Nhưng tương quan ấy tinh tế hơn nhiều, và có thể nói là đã được cách điệu hóa trong trường hợp những từ như lác đác, bâng khuâng, long lanh, mênh mông… Sự cách điệu hóa ấy chính là sự biểu trưng hóa ngữ âm (…) chính mối

tương quan này tạo nên sắc thái biểu cảm hay gợi ý của từ - giá trị ấy của từ láy, người bản ngữ tỏ ra nhạy cảm so với người nước ngoài dùng tiếng Việt”. [23, tr. 23]

- Qua các công trình nghiên cứu có liên quan, Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với những thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh, tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm, gồm nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” [2; tr. 40].

- Nguyễn Thiện Giáp, với cách gọi “ngữ láy âm” tương đương với “từ láy”, đã khái quát: “Ngữ láy âm là những đơn vị được hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay lặp lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa có sự hài hòa về ngữ âm, vừa có giá trị gợi cảm, gợi tả.” [9; tr. 86]

- Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, các tác giả đưa ra quan điểm: “Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hòa phối ngữ âm cho ta các từ láy (còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm).[..].. Một từ sẽ được gọi là từ láy khi các thành tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại, nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi (gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp phần âm đầu, đối ở phần vần.” [5; tr.146].

- Hoàng Văn Hành cho rằng: “Từ láy, nói chung, là từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hòa với nhau về âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng hóa” [10; tr. 354]. Tác giả cũng cho rằng: “Khi thừa nhận láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hóa, thì cũng có nghĩa là chúng ta đã coi láy là một cơ chế” [10; tr. 466].

Theo những định nghĩa về từ láy vừa được liệt kê dựa trên hướng quan điểm thứ hai, chúng ta có thể nhận thấy các tác giả ở đây rõ ràng coi láy không phải là ghép, không bao hàm trong ghép cũng như từ láy không thuộc từ ghép mà độc lập, tách riêng với từ ghép.

Ngoài hai hướng quan điểm trên còn có quan điểm coi láy là phụ tố như tác giả Lê Văn Lý. Ông gọi từ láy là “từ ngữ kép phản phúc”: “Đó là những từ ngữ đơn được lắp đi lắp lại trong những yếu tố thành phần của chúng (tr. 34). Theo quan niệm của tác giả thì “từ ngữ kép phản phúc” được cấu tạo nhờ các loại phụ tố sau đây:

a) Tiếp vị ngữ, như -i- trong bền bỉ, thầm thì, chăm chỉ, v.v…

b) Tiếp đầu ngữ, như -a- trong tả tơi, nhá nhem, trà trộn, tha thiết, v.v…

c) Tiếp trung ngữ, gồm có -a- hoặc –ơ- ví dụ: ấm ớ > ấm a ấm ớ…, líu tíu > líu ta líu tíu, ngất ngưởng > ngất ngơ ngất ngưởng, v.v…” [10; tr. 457]

Tuy nhiên, quan điểm này chưa hoàn toàn bao quát được những trường hợp láy khác xuất hiện trong tiếng Việt nên không được nhiều người ủng hộ.

Qua tất cả các khái niệm về từ láy được đưa ra theo các điểm nhìn khác nhau trên đây, có thể thấy:

Nói đến từ láy thì điểm nổi bật và quan trọng trước hết đó là mặt ngữ âm.

Các thành tố trong từ láy đều có quan hệ ngữ âm với nhau. Đây cũng chính là điểm giống nhau được nêu ra trong các khái niệm từ láy trên. Đặc biệt, đối với những khái niệm hướng theo quan điểm coi láy là ghép thì mặt ngữ âm là khía cạnh duy nhất – khía cạnh về cấu tạo, được tập trung để định nghĩa một từ láy trong tiếng Việt. Trong khi đó, các ý kiến theo như quan điểm thứ hai cho rằng láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hóa, ngoài việc nhắc đến mặt ngữ âm còn nhắc đến mặt ngữ nghĩa của từ láy. Như vậy có thể thấy hướng quan điểm thứ hai đầy đủ và xác đáng hơn, do đó, chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm này. Ngoài ra, chúng tôi còn cho rằng, từ láy có mô hình cấu trúc đặc biệt mang chức năng biểu đạt, biểu cảm phong phú và với một số lượng không nhỏ trong kho từ vựng tiếng Việt (hơn 5000 từ - theo “Từ điển từ láy tiếng Việt” [11] do Hoàng Văn Hành chủ biên) nên việc tách riêng từ láy thành một kiểu loại giúp cho việc tìm hiểu, phân tích rõ ràng, chi tiết và hệ thống hơn.

Trong các khái niệm từ láy của các tác giả khác nhau từ trước đến nay, khái niệm của Hoàng Văn Hành có tính hợp lí, bao quát và chặt chẽ, hoàn thiện hơn cả, do vậy mà nó nhận được nhiều sự đồng tình của những người có quan tâm và các nhà nghiên cứu khác. Khái niệm và các nghiên cứu liên quan của ông đã khái quát được quan hệ ngữ âm hay cụ thể hơn là sự hòa phối ngữ âm dựa trên cơ sở hai quy tắc “điệp” và “đối”. Điều này các nhà nghiên cứu khác trước đó cũng có nhắc đến dưới hình thức của các cấu trúc tạo nên từ láy. Tuy nhiên, ông là người đã gọi tên và chỉ ra rõ mối quan hệ của chúng trong phương thức láy: “Điệp là sự lặp lại, sự đồng nhất về âm, về nghĩa; còn đối là sự sai khác, sự dị biệt, cũng về âm, về nghĩa. (…) Sự tác động của quy tắc điệp và quy tắc đối trong quá trình cấu tạo từ láy là sự tác động có quan hệ chi phối và ràng buộc lẫn nhau. (…) Có thể nói điệp và đối là hai mặt của một cơ trình, gắn bó hữu cơ với nhau, có cái nọ thì nhất thiết phải có cái kia, dù cho những biểu hiện của nó dưới hình thái nào thì cũng vậy.” [10; tr. 466- 467]. Hay cụ thể hơn: “điệp (hay thế điệp) là trạng thái đồng nhất trong quan hệ giữa các tiếng của từ láy, là hệ quả của sự nhân đôi tiếng gốc trong quá trình cấu tạo từ láy. Còn đối (hay thế đối) là trạng thái dị biệt trong quan hệ giữa các tiếng của từ láy, là hệ quả của sự biến đổi hoặc kết hợp ở tiếng láy để đảm bảo có sự hòa phối về âm và về nghĩa với tiếng gốc” [10; tr. 467]. Đây thực sự là hai quy tắc mang tính kết hợp chặt chẽ làm nên đặc trưng của từ láy.

Để làm cơ sở lý luận cho luận văn này, chúng tôi nhận thấy rằng có thể dựa trên khái niệm của tác giả Hoàng Văn Hành, đồng thời tính đến sự phù hợp với việc giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ có thể khái quát đặc điểm của từ láy trong tiếng Việt như sau (có tổng hợp từ các khái niệm khác của các nhà nghiên cứu):

Từ láy là kiểu từ được tạo nên từ phương thức láy – một trong các phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt. Từ láy trong tiếng Việt là từ đa âm tiết, với số lượng âm tiết tối thiểu là hai và tối đa là bốn âm tiết. Trong một từ láy có thể không có âm tiết có nghĩa hoặc những trường hợp phổ biến hơn là các từ láy gồm một âm tiết có nghĩa được gọi là thành tố gốc hay tiếng gốc (theo cách gọi của Hoàng Văn Hành) hoặc hình vị gốc (theo Đỗ Hữu Châu) và các âm tiết còn lại được gọi là

thành tố láy. Thành tố gốc chính là yếu tố được nhân lên theo cơ chế láy nhất định, tức là dựa theo các quy tắc điệp và đối, tạo ra sự lặp lại trong từ láy và đảm bảo quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa có tính chất điệp, vừa có tính chất đối, vừa hài hòa với nhau về âm và về nghĩa và mang giá trị biểu trưng hóa. Từ đó tạo nên những nét nghĩa và giá trị tu từ khác nhau của mỗi từ láy.

Bàn về từ láy trong tiếng Việt, có một số trường hợp còn gặp phải vấn đề khi xác định chúng có thuộc kiểu từ láy hay không, đặc biệt là với các trường hợp mà nhiều tác giả coi là trung gian giữa từ láy và từ ghép. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ quy ước, phân biệt như sau:

- Những từ như chùa chiền, đất đai, tuổi tác, máy móc… xét ở góc độ lịch đại thì thành tố thứ hai trong các từ này vốn cũng có nghĩa tương đương với thành tố thứ nhất song hiện nay đã bị mờ nghĩa. Tuy nhiên xét ở góc độ đồng đại thì thành tố thứ hai mất nghĩa, hơn nữa giữa hai thành tố có sự tương đồng về phụ âm đầu và các từ này mang ý nghĩa khái quát hơn so với dạng từ đơn. Do đó trong luận văn này chúng sẽ xếp chúng vào nhóm từ láy.

- Những từ dạng ầm ĩ, ấm áp, ê a, ồn ã, ấp úng, âm u,… sẽ được coi là từ láy phụ âm đầu với sự láy lại phụ âm đầu tắc thanh hầu của các thành tố trong từ, nói cách khác là các thành tố trong từ cùng khuyết phụ âm đầu và các từ này có giá trị biểu cảm cao.

- Những từ biểu thị sự vật như ba ba, cào cào, châu chấu, bươm bướm, chuồn chuồn… sẽ không được coi là từ láy mặc dù về mặt hình thức chúng giống như từ láy song chúng chỉ là tên gọi mà không mang giá trị biểu trưng hóa.

- Các trường hợp: những từ mà tình cờ giữa hai tiếng có các yếu tố ngữ âm giống nhau như buôn bán, leo trèo, tranh giành…, một số từ hai âm tiết rất phù hợp với quy tắc láy đôi về âm và thanh điệu, song cả hai âm tiết có thể được dùng độc lập và đều có nghĩa như đền đài, gậy gộc, thuốc thang…, những từ mà hai yếu tố chỉ có sự láy lại ở riêng thanh điệu như tình cờ, vững chãi, bẩn thỉu…, hay những từ mà chỉ có sự láy lại ở riêng âm chính trong hai yếu tố như ton hót, tun hút, vườn tược… sẽ không được coi là từ láy.

Ngoài ra bàn về từ láy, phương thức láy (hay còn gọi là lặp) cũng là một vấn đề có liên quan. Đây được coi là một trong các phương thức biểu thị ý nghĩa ngữ pháp trong ngôn ngữ: “Lặp (còn gọi là láy) có nghĩa là lặp lại toàn bộ hay một bộ phận vỏ ngữ âm của chính tố để tạo nên một từ mới (với ý nghĩa từ vựng mới) hoặc một dạng thức mới của từ (với ý nghĩa ngữ pháp mới). Khi phép lặp được sử dụng để biểu thị sự thay đổi ý nghĩa ngữ pháp thì phép lặp ấy là một phương thức ngữ pháp.” [8; tr. 221, 222] hay “Lặp bao gồm lặp toàn phần hay lặp bộ phận. Nó thường hay được sử dụng để biểu thị số nhiều, […]” [5; tr. 250]. Từ phương thức này mà ta có các từ “người người, nhà nhà, ai ai, chiều chiều, ngày ngày,…” biểu thị ý nghĩa số nhiều từ các danh từ gốc số ít “người, nhà, ai, chiều, ngày,…” hay các từ “vẫy vẫy, gật gật, xoay xoay,…” chỉ sự liên tục của hành động từ các động từ đơn âm tiết “vẫy, gật, xoay,…”. Một số ý kiến coi các từ này là từ láy, song theo quan điểm của chúng tôi trong luận văn, chúng là các từ được cấu tạo từ phương thức lặp (láy) như vừa đề cập ở trên.

Một phần của tài liệu KHẢO SÁT TỪ LÁY TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI (XUẤT BẢN TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1980 ĐẾN NAY) (Trang 22 - 28)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(143 trang)
w