Các từ láy xét trên khía cạnh ngữ nghĩa

Một phần của tài liệu KHẢO SÁT TỪ LÁY TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI (XUẤT BẢN TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1980 ĐẾN NAY) (Trang 51 - 62)

GIÁO TRÌNH TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

2.1.2. Các từ láy xét trên khía cạnh ngữ nghĩa

Theo thống kê của chúng tôi, ngoại trừ 121 từ láy chỉ xuất hiện trong mục phát âm và không xem xét đến khía cạnh nghĩa thì tồn tại 625 từ láy được sử dụng với các mức độ tiếp cận nghĩa khác nhau. Có từ láy được giới thiệu theo hệ thống cấu trúc và ý nghĩa đặc biệt của nó, có từ láy chỉ ngẫu nhiên được sử dụng trong các câu ví dụ thuộc phần ngữ pháp hoặc các câu bài tập hoặc một số đoạn văn, đoạn hội thoại theo chủ đề nên tùy trường hợp mà ý nghĩa của chúng được giới thiệu một cách đơn giản, sơ lược chứ không được chú trọng, ví dụ như các thành phần từ vựng, ngữ pháp. Sau đây là phần mô tả phân loại từ láy theo tiêu chí này và những mô tả chi tiết về các từ láy được giới thiệu cụ thể, chính thức trong các giáo trình.

Dựa theo sự phân loại của Hoàng Văn Hành đã đề cập trước đó, có ba nhóm từ láy về mặt ngữ nghĩa:

- Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm giản đơn (nói cách khác là từ tượng thanh, từ tiếng vang) (kí hiệu: N1)

- Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu (kí hiệu: N2)

- Từ láy vừa biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa (kí hiệu N3) Cả ba loại từ láy này đều có mặt trong các tư liệu khảo sát của chúng tôi, thành phần như sau:

6.56%

22.08%

71.36%

Biểu đồ 2.7. Các loại từ láy phân theo ngữ nghĩa

N1 N2 N3

Trong ba loại từ láy, loại N1 với các từ láy biểu trưng hóa ngữ âm giản đơn có số lượng ít nhất: 41 từ (chiếm 6.5%) trong khi loại N3 với các từ láy vừa biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa có số lượng nhiều nhất: 446 từ (chiếm 71.4%), gấp gần 11 lần loại N1. Loại N2 với các từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu có một số lượng đáng kể: 138 từ (chiếm 22.1%) mang ý nghĩa biểu thị thuộc tính. Cụ thể từng loại như sau:

Loại N1: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm giản đơn

Hoàng Văn Hành đã chỉ rõ: Từ láy có thể là “từ tiếng vang” – tức là những từ bắt chước, mô phỏng, gợi tả trực tiếp, gần đúng âm thanh tự nhiên theo cơ chế láy, hoặc cũng có thể các từ “tiếng vang”, từ “tượng thanh” được “chuyển nghĩa theo phép hoán dụ, được dùng để biểu trưng cho bản thân sự vật, hiện tượng, hay quá trình phát ra âm thanh mà từ mô phỏng” như chao chát, chát chúa, lục đục, rì rầm, v.v… [10; tr. 502]. Trong tổng số 41 từ láy loại N1 thu thập được thì tất cả các từ láy này đều là tính từ và động từ. Các từ láy loại này có mặt phần lớn là ở trong các đoạn văn, ngoài ra còn có một số dùng trong các đoạn hội thoại và một số có mặt trong các ví dụ về ngữ pháp và câu rời trong các bài tập. Hầu hết chúng được sử dụng riêng lẻ trong các ngữ cảnh ngẫu nhiên, như các trường hợp sau:

(Số liệu được làm tròn đến chữ số thập phân thứ nhất)

- “Bé chăm học nhưng không thông minh. Suốt ngày ê a đọc theo sách mà ít suy nghĩ. […]” (Bài đọc “Rắn là một loài bò” – GT – 11 [tr. 272])

- “[…] Cú hỏi gà: “Mày đã làm tổ lần nào chưa?”. Gà không nói gì. Nó gật gà gật gù, sau đó ngáy khò khò, còn cú thì bỏ đi. […]” (Bài đọc “Loài chim học xây tổ” – GT – 02 – T1 [tr. 91])

- “[…] Thu: Alô, Mai ơi, số điện thoại của Liên này: 38268541

Mai: Máy hơi lạo xạo, tớ nghe không rõ, có phải 38268541 không?”

(Hội thoại – GT – 09 – B [tr. 7])

- “Đêm đã khuya, anh ấy vẫn cứ cười nói oang oang.” (Bài tập đặt câu – GT – 02 – T1 [tr. 184])

V.v…

Hai đoạn văn dưới đây có sử dụng loại từ láy này với số lượng nhiều hơn, kết hợp trong cùng một chủ đề miêu tả:

- Đoạn thứ nhất trích trong bài đọc “Nhà máy xe lửa Gia Lâm”:

“[…] Chúng ta hãy vào trong xưởng. Tiếng máy xình xịch, tiếng búa chan chát, tiếng cưa xoèn xoẹt vang dội cả gian nhà. […] Chỗ này là khu rèn. Bễ điện thổi phì phò. […] Cạnh đó, một búa máy đồ sộ đập thình thịch xuống những thanh sắt đỏ, thay cho sức lao động của hàng chục công nhân. […] Máy chuyển ầm ầm, bánh xe quay tít, lưỡi bào cọ sắt kêu lên ken két. […] Chỗ này máy cưa rọc gỗ xoèn xoẹt, chỗ kia máy ép, […]” [GT – 01 – T2; tr. 114, 115]

Liên tiếp các từ láy với ý nghĩa biểu trưng hóa ngữ âm đơn giản được đưa vào đoạn văn tạo sự sinh động và ấn tượng âm thanh rõ rệt khi miêu tả một nhà máy sản xuất. Chúng không chỉ đơn thuần được sắp xếp trong mục từ ngữ mới của bài đọc để giới thiệu nghĩa mà còn được giới thiệu với vai trò là các từ tượng thanh. Ở đây, khi đề cập đến từ tượng thanh như vậy thì giáo viên sẽ phần nào cung cấp hiểu biết về đặc điểm cấu trúc đặc biệt của các từ láy cho học viên của mình. Ngoài ra bài hội thoại đi kèm với nội dung tương đồng cũng sử dụng lặp lại các từ láy này, cho thấy tác giả chú trọng giới thiệu chúng trong bài.

- Đoạn văn thứ hai trích trong bài đọc về chủ đề làng quê trong giáo trình GT – 04 – A của tác giả Vũ Văn Thi:

“[…] Từ làng này sang làng khác có những con đường nhỏ, hai bên đường là hai hàng cây xanh. Ở đây, không có tiếng ầm ầm của các phương tiện giao thông, không có tiếng kêu lanh lảnh của còi xe ô tô, xe máy mà chỉ có tiếng chim hót trong những rặng cây xanh xào xạc. […]” [tr. 265]

Đoạn này có ba từ láy được liên tục sử dụng trong một câu miêu tả về âm thanh của làng quê. Nghĩa của từ chắc chắn sẽ được giải thích, song về bình diện từ láy thì giáo viên có thể giới thiệu khái niệm của loại từ này hoặc không, tùy vào điều kiện giảng dạy.

Như trong hai đoạn văn trên, các từ láy được đưa vào có mục đích cụ thể hơn so với các trường hợp giới thiệu riêng lẻ khác. Mục đích đó là giới thiệu dạng từ có kết cấu và ý nghĩa đặc biệt này trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Tuy nhiên, việc học và ứng dụng các từ vựng này khó có thể dựa trên cấu trúc mẫu do sự tri nhận của người Việt có những điểm khác với tri nhận của những người đến từ các đất nước khác trên thế giới. Vì thế, học viên vẫn cần phải hiểu, nhớ và áp dụng các từ láy vào các ngữ cảnh tương tự, phù hợp, thay vì những mô hình cấu tạo nhỏ lẻ, chưa thực sự rõ ràng.

Loại N2: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu

Với loại từ láy này, nghĩa của từ không thể được rút ra từ tiếng gốc do không thể hoặc không còn xác định được tiếng gốc (có thể do trong quá trình phát triển của tiếng Việt, các tiếng đã bị mất nghĩa, cũng có thể do nghĩa của chúng được quy ước bởi cộng đồng người nói tiếng Việt, …). Chính sự hòa phối ngữ âm thể hiện ở quy tắc điệp và đối xét trên khía cạnh cấu tạo của các từ láy này sau khi được cách điệu hóa thì mang lại tác dụng gợi tả, gợi ý và biểu cảm cho chúng. Hoàng Văn Hành nói rằng “tính có lí do của mối quan hệ âm – nghĩa ở các từ đang xét thể hiện

ở sự hòa phối ngữ âm được cách điệu hóa, có giá trị biểu trưng.” [10; tr. 504, 505]

và theo đó, giá trị tạo nghĩa theo cách thức này được xem là hệ quả của cơ chế láy.

Nhóm này gồm những từ láy biểu thị thuộc tính (hiểu với nghĩa rộng, gồm tính chất, quá trình, trạng thái, v.v…), ví dụ: bâng khuâng, ru rú, v.v…

Từ bản chất của loại từ láy N2, có thể dễ dàng hiểu được việc giới thiệu khái niệm, đặc điểm của loại từ láy này là không cần thiết bởi vốn dĩ không thể nhận ra tiếng gốc của chúng, đồng thời qui tắc điệp và đối biểu hiện rất đa dạng ở mỗi từ láy, vậy nên tất cả các từ láy loại N2 này thường được học viên tiếp cận như những đơn vị từ thông thường với đặc điểm từ loại (động từ hay tính từ) và nghĩa của chúng, chứ khó có thể được tiếp cận dưới góc độ từ láy. Những từ thuộc loại này theo khảo sát thì được đặt vào các câu thuộc các đoạn văn, hội thoại, các cụm từ - thành ngữ - tục ngữ thông dụng, các câu thuộc phần bài tập, và một vài các câu giải thích, câu ví dụ nằm trong phần ngữ pháp, như:

- “[…] Bình: […] Cháu là Bình đây. Bà khỏe không, bà?

Bà Hai: Bình nào vậy? Cháu chắt có những 20 đứa mà bà thì già rồi, lẩn thẩn. […]” (Hội thoại thuộc GT – 07 – T3 [tr. 107])

- Ki cóp cho cọp nó xơi (Tục ngữ được giới thiệu trong giáo trình GT – 06 – B, C [tr. 289]

- “Da cô ấy trắng như tuyết, còn mắt cô ấy đen lay láy, ai nhìn cũng mê.” (Câu trong bài tập thuộc GT – 12 – B, C – T2, [tr. 86])

- “[…] Hoa đang mặc quần áo cũ và bẩn, đầu tóc chưa chải. Trông cô có vẻ lôi thôi và mệt mỏi. […]” (Câu trong đoạn văn thuộc GT – 09 – B, [tr. 21])

- “Bên cạnh … còn …

Kết cấu này được dùng khi muốn diễn đạt hai ý song song.” (Câu giải thích ngữ pháp thuộc GT – 02 – T2 [tr. 150])

- “Đỉnh Phan Xi Păng sừng sững cao đến 3.142 mét.” (Câu ví dụ ngữ pháp thuộc GT – 02 – T2 [tr. 132]) V.v…

Chúng tôi cũng tìm thấy trong kết quả khảo sát về nhóm từ loại này một số ít trường hợp đặc biệt hơn những trường hợp trên. Đó là trường hợp tác giả đưa vào giáo trình các bài đọc hay đoạn văn một lượng từ láy N2 - B khá nhiều và liên tục:

“ Nhà máy xe lửa Gia Lâm

Anh hãy đi với tôi sang bên kia cầu Long Biên, đến giữa một khu đất rộng hàng chục mẫu, những dãy nhà dài nối nhau liên tiếp. Trên những mái ngói đỏ, sừng sững một ống khói cao ngất nghểu to bằng bốn người ôm không xuể. Từng luồng khói đen cuồn cuộn phun lên, tỏa ra trên bầu trời xanh biếc. Đó là nhà máy xe lửa Gia Lâm.

Qua cổng rộng lớn, ta bước qua những đường ray chi chít chạy dọc, chạy ngang nối các khu nhà máy với nhau. […] Một chiếc tàu đứng sừng sững ở giữa. [...] Chỗ này là khu mộc. Gỗ mới xẻ mùi thơm phưng phức. […]” [GT – 01 – T2; tr 114, 115]

Một loạt các từ láy “sừng sững, ngất nghểu, chi chít, phưng phức” xuất hiện với chức năng dùng để miêu tả các sự vật ở một nhà máy xe lửa. Trong bài đọc, những từ này được giới thiệu với tư cách là từ tượng hình trong tiếng Việt. Chúng là sự kết hợp giữa khả năng gợi tả hình ảnh, trạng thái một cách cụ thể, sinh động của từ tượng hình và hiệu ứng về mặt âm thanh của cấu trúc từ láy mang lại. Cùng trong bài đọc này, một số từ tượng thanh xuất hiện dưới dạng thức của từ láy (như đã đưa ra ở nhóm N1 phía trên) và theo như giáo trình sắp xếp, hai nhóm từ này được đưa vào dạy ở phần ngữ pháp nhưng chỉ trên phương diện ngữ nghĩa mà không đề cập đến phương diện cấu trúc từ láy. Với việc tiếp cận đoạn văn này, học viên hoàn toàn có thể tiếp cận các từ này theo khái niệm từ tượng hình, tượng thanh và nếu có thể, họ cũng có thể tinh tế nhận ra mặt âm thanh có nét đặc biệt tạo sự thoải mái, dễ đọc, dễ nhớ khi phát âm. Khi đó khái niệm về từ láy có khả năng được giới thiệu. Song, do bản chất đây là những từ láy mà tiếng gốc của nó khó xác định nên việc đề cập đến khái niệm từ láy nếu có thì sẽ chỉ ở mức sơ lược nhất, thậm chí chỉ là một loại đơn cử, như ở đây cụ thể là loại từ láy phụ âm đầu. Học viên sẽ ghi nhớ những từ này và áp dụng cho những lần miêu tả sự vật có tính chất, hoạt động tương tự mà

không thể tự tạo ra những từ láy hay từ tượng hình kiểu như vậy trong các trường hợp hoàn toàn khác. Ngay sau đó, một bài tập yêu cầu học viên tìm các từ tượng thanh và tượng hình trong một đoạn văn được đưa vào:

“…Mưa đến rồi, lẹt đẹtlẹt đẹt … mưa mở đầu. Những giọt nước mưa lăn xuống mái nứa: mưa thực sự rồi! Mưa đổ xuống khiến cho mọi người không tưởng tượng được là mưa lại kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ thì bao nhiêu nước tuôn rào rào … Con gà trống ướt lướt thướt ngật ngưỡng tìm chỗ trú.

Mưa xuống sầm sập, giọt rơi giọt bay, bụi nước tỏa trắng xóa … Mưa rào rào trên sân gạch. Mưa đồm độp trên phên nứa, đập lùng bùng vào lá chuối. Tiếng giọt gianh đổ ồ ồ

Nước cuồn cuộn dồn vào cống rãnh, chảy ào ào xuống ao chuôm. Mưa xối xả được một lúc lâu thì bỗng trên trời vang lên một loạt tiếng nổ ục ục ì ầm. Tiếng sấm, tiếng sấm của mưa đầu mùa hạ!” [tr. 120]

Để nhận biết các từ tượng thanh, từ tượng hình trong bài này, học viên dựa trên nghĩa của từ, cũng có thể dựa trên dấu hiệu là các từ này sẽ đi kèm phía trước hoặc phía sau các động từ, tính từ chỉ hành động, tính chất, hơn nữa nếu được biết về dạng lặp của từ láy thì có thể tìm các từ này một cách dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn.

Nhìn chung, các từ láy loại N1 và N2, trong các giáo trình được khảo sát thì tùy theo mức độ thông dụng mà sẽ được sử dụng lặp lại ở các bài đọc, hội thoại hoặc bài tập tiếp theo hoặc chỉ được giới thiệu khoảng một hoặc hai lần riêng lẻ.

Ngoài ra, một số từ láy được giới thiệu phần nào thông qua hai loại từ có liên quan mật thiết là từ tượng thanh và từ tượng hình nhưng khía cạnh từ láy không được tập trung đi vào chi tiết.

Loại N3: Từ láy vừa biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa Đây là loại từ láy thứ ba xét về mặt ngữ nghĩa và có số lượng từ láy thu thập được sau khảo sát nhiều nhất với 446 từ, chiếm 71.4% tổng số từ láy trong các giáo trình. Trong đó chúng tôi ghi nhận các từ láy này không chỉ xuất hiện dưới dạng từ láy đôi mà còn xuất hiện dưới dạng từ láy bốn và duy nhất chỉ một từ láy ba. Từ láy thuộc loại này là những từ mà “nghĩa của nó có thể giải thích được không chỉ nhờ nghĩa của tiếng gốc, mà còn nhờ giá trị tạo nghĩa (tức là giá trị biểu trưng hóa) của sự hòa phối ngữ âm trong cấu tạo của nó.” [10; tr. 510]. Quy tắc điệp và đối trong cơ cấu nghĩa của từ cũng chính là sự thể hiện của sự hòa phối ngữ nghĩa nhìn theo góc độ của cơ chế láy. Điều này được hiểu qua các các các ví dụ như “đỏ đắnđỏ với một sắc thái nào đấy, vì đắn chính là đỏ được dị biệt hóa, là sự lặp lại của đỏ với sắc thái khác. Nhấp nháynháy lặp đi lặp lại theo chu kì với cường độ khác nhau, trong đó nhấp chính là nháy được lặp đi lặp lại, là nháy được dị biệt hóa, với sắc thái riêng do khuôn vần -ấp đưa vào.” [10; tr. 361]. Như vậy, sự hòa phối ngữ nghĩa trong các từ đang xét đã làm cho nghĩa của từ láy được chuyên biệt hóa so với nghĩa của tiếng gốc.

Căn cứ vào bản chất ngữ nghĩa của tiếng gốc mà sự chuyên biệt hóa này diễn ra theo nhiều chiều hướng, mức độ khác nhau. “Nếu tiếng gốc vốn là từ biểu thị thuộc tính được đánh giá theo thang độ thì từ láy được cấu tạo ra sẽ biểu thị bản thân thuộc tính ấy với sự đánh giá cao hơn về mặt chất lượng. Vuông vắn là vuông đến mức cân đối, nhìn thấy thích mắt. Đỏ đắnđỏ với vẻ tươi, đẹp. […] Nếu tiếng gốc vốn là từ biểu thị động tác hay quá trình thì từ láy được cấu tạo ra thường biểu thị bản thân tác động hay quá trình ấy với sắc thái nghĩa gợi tả cách diễn ra của nó. Lập lòelòe lặp đi lặp lại với cường độ khác nhau theo chu kì. Gật gùgật liên tiếp, tỏ ý tán thưởng.” [10; tr. 361, 362]

Trong trường hợp tiếng gốc chứa đựng những nét nghĩa khác nhau thì bằng những mẫu không giống nhau, các từ láy được tạo nên dù có chung tiếng gốc nhưng lại biểu đạt những nghĩa khác nhau. Ví dụ với tiếng gốc là rắn, hai từ láy răn rắn

rắn rỏi được sử dụng ở hai ngữ cảnh khác nhau sao cho phù hợp với nghĩa đã được định hướng chuyên biệt xuất phát từ sự hòa phối ngữ âm trong các từ đó. Tương tự với ba từ láy lạnh lẽo, lạnh lùng, lành lạnh chung tiếng gốc lạnh nhưng người bản ngữ dễ dàng phân biệt và chọn lựa chúng vào đúng tình huống cần nét nghĩa đó.

Còn có cả những trường hợp mà dù cùng một tiếng gốc nhưng tiếng láy của các từ láy lại sử dụng các khuôn vần khác nhau, từ đó tạo ra những sắc thái nghĩa khác biệt. Có thể thấy điều này khi nhìn vào trường hợp của từ khít với hai từ láy khin khít khít khịt thể hiện hai mức độ khít trái ngược nhau: một thể hiện ý hơi khít (khin khít) còn một thể hiện ý rất khít (khít khịt).

Ngoài tính từ và động từ đóng vai trò là tiếng gốc trong từ láy thì trong nhóm từ láy N3 này còn bao hàm một lượng từ láy đối vần mà tiếng gốc của nó vốn là từ biểu thị sự vật, như chim chóc, hội hè, cây cối, nước nôi, chùa chiền, v.v… Các từ láy này hành chức trong câu vẫn như một danh từ - giống như tiếng gốc của nó, tuy nhiên nghĩa của nó cũng không đơn thuần giống như tiếng gốc mà có khác phần nào đó về mặt sắc thái.

Tóm lại, các cách hòa phối ngữ âm và ngữ nghĩa đa dạng, tinh tế đã cung cấp một lượng lớn từ láy vừa biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu biểu đạt của người bản ngữ.

Số lượng lớn của từ láy N3 có mặt trong các giáo trình tiếng Việt (446 từ) cho thấy từ láy loại này thông dụng hơn so với hai loại còn lại. Chúng được sử dụng trong tất cả các mục nằm trong giáo trình: hội thoại, đoạn văn bài đọc, cụm từ ngữ thông dụng, trong các câu thuộc mục giới thiệu ngữ pháp hoặc chú thích, các ví dụ ngữ pháp và các mục bài tập:

+ Khi giới thiệu cách dùng từ “toàn bộ”, mục ngữ pháp của giáo trình GT – 09 – C nhắc đến 2 từ láy chỉ sự vật một cách khái quát: “Toàn bộ thường chỉ kết hợp với danh từ chỉ vật như: đồ đạc, cây cối, nhà, xe…” [tr. 08]

+ “[…] Tuấn: Minh này, chiều mai đi đánh cầu lông đi!

Minh: Ừ, đi, ngày nào cũng nên đánh thì mới tốt.

Một phần của tài liệu KHẢO SÁT TỪ LÁY TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI (XUẤT BẢN TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1980 ĐẾN NAY) (Trang 51 - 62)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(143 trang)
w