Chương 2. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO VỀ CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG – THỜI LÝ
2.1.3. Về tính khoan dung và nhân đạo trong Luật pháp
Đường lối chính trị thiên về đức trị, nhân trị dưới triều Lý đã ảnh hưởng sâu sắc đến luật pháp đương thời. Dưới sự ảnh hưởng đức hiếu sinh và giáo lý của Phật giáo, Luật pháp nhà Lý mang nặng tính giáo hóa hơn là trừng phạt.
Ở thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, luật pháp còn mang nặng tính hà khắc, chưa rõ ràng.
Các vua hai triều Ðinh và Tiền Lê cho đặt vạc dầu, làm chuồng hổ để để những ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hay cho hổ ăn thịt. Những hình phạt hà khắc dưới thời Đinh, được Quốc sử quán triều Nguyễn ghi lại như sau: “Niên hiệu Thái Bình năm đầu. Vua mới lên ngôi, quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng kinh đô ở Hoa Lư. Vua muốn lấy oai quyền, chế ngự thiên hạ, đặt cái vạc to ở sân, nuôi con mãnh hổ ở trong cũi, ra lệnh rằng, ai trái mệnh lệnh phải chịu tội lửa nấu, hùm nhai”14. Chẳng hạn, năm 979, Đỗ Thích sau khi sát hại vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn đã bị Định Quốc Công Nguyễn Bặc bắt được, đem chém, đập nát xương, băm thịt làm nhiều mảnh rồi “chia cho người dân trong nước cùng ăn”. Khi Lê Hoàn chấp chính, Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp không phục nên dấy quân chống lại. Việc không thành, Đinh Điền bị giết tại trận, Nguyễn Bặc bị bắt giải về kinh, sau đó bị chém đầu rồi đem bêu trước công chúng. Đến thời Tiền Lê vẫn giữ những hình luật hà khắc đó. Dưới thời vua Lê Long Đĩnh là vị vua có tính
GVHD: Khoa Năng Lập đốt hoặc dùm dao cùn xẻo từng miếng thịt phạm nhân,...
Trong giai đoạn đầu, thời kỳ mà đất nước còn chưa mấy ổn định, các vua Đinh - Tiền Lê đã sử dụng những hình phạt rất nặng nhằm răn đe dân chúng và củng cố uy quyền nhà nước. Đến khi nhà Lý được thành lập, đất nước ngày càng phát triển cường thịnh, các mặt kinh tế, văn hóa xã hội đều có những bước phát triển vượt bậc, nhiều vấn đề trong xã hội phát sinh. Do đó, đòi hỏi nhà Lý phải xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật mới, hoàn chỉnh hơn và phù hợp hơn.
Vua Lý Thái Tông thấy luật pháp thời Đinh - Tiền Lê còn hà khắc mới sai Trung thư san định luật lệ. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép: “Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót sai trung thư sửa định luật lệnh”15, châm chước sao cho vừa phù hợp với thời, chia ra môn loại, mà soạn thành điều mục riêng. Hiện nay, bộ Hình thư không còn nhưng thông qua những tư liệu lịch sử, chủ yếu thông qua các chiếu lệnh mà nhà vua ban ra mà có thể xác định được một số điều luật.
Năm 1042, bộ luật Hình thư ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành luật pháp nước ta. Bộ luật này gồm có ba quyển, hiện nay không còn nhưng có thể biết được nội dung của nó thông qua các sắc lệnh của vua ban ra. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, “khi ban hành, dân lấy làm tiện lắm”. Đến tháng 11, vua lại xuống chiếu cho những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu, cho đến các thân thuộc nhà vua từ để tang 9 tháng, 1 năm trở lên, có phạm tội thì cho dùng tiền để chuộc tội, riêng phạm vào tội thập ác16 thì không tha. Việc đặt lệ dùng tiền chuộc tội cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân, muốn cho họ có cơ hội để làm lại từ đầu. Với chiếu lệnh này, cho thấy được luật pháp nhà Lý có tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc.
Trong xét xử các vua Lý thường có tính khoan dung, lấy việc giáo dục là chính.
Có lần vua Thánh Tông xem xét xử ở điện Thiên Khánh, có công chúa Động Thiên và Bảo Ngọc hầu bên cạnh, nhà vua chỉ vào công chúa mà nói: “Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiếm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm bớt đi”17. Với sự ảnh hưởng bởi lòng nhân ái, khoan
GVHD: Khoa Năng Lập dung của Phật giáo, các vua triều Lý đã áp dụng một hình phạt rất nhẹ đối với những người phạm tội, không hà khắc như thời Đinh - Tiền Lê.
Luật pháp triều Lý coi trọng việc giáo hóa lòng người hơn là trừng phạt, điều này chứa đựng tinh thần nhân ái, khoan dung mang dấu ấn tư tưởng từ bi hỷ xả của đạo Phật.
Chẳng hạn như năm 1028, vua Thái Tổ mất, trong cung xẩy ra vụ loạn Tam vương. Đại Việt Sử Ký Toàn thư có chép lại: “Vua Thái Tổ mất ở điện Long An, Thái tử Phật Mã lên ngôi. Lúc trước vua đau mệt lắm; Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương nghe tin đưa phủ binh vào phục sẵn ở Long Thành đợi Thái tử đến thì phục kích.
Thái tử biết tin nói: Ta không có điều gì phụ lòng anh em mà ba vị vương lại làm điều bất nghĩa, thế là sao?”.
Lý Nhân Nghĩa mới nói với Thái tử xin đem quân ra đánh. Thái tử nói: “ta muốn che giấu việc xấu để cho ba vương phải tự biết mà lui đi cho toàn tình cốt nhục là hơn”.
Như vậy, ta thấy được Thái Tông là một người có tấm lòng tấm lòng khoan dung, độ lượng không muốn cốt nhục tương tàn. Sau khi dẹp được loạn, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương xin về chịu tội, riêng Vũ Đức Vương thì chết trong chiến trận. Thái Tông nghĩ tình cốt nhục bèn tha cho tội cho và lại phục chức cũ cho cả hai người. Quả thật, sự khoan dung, độ lượng của vua Thái Tông không phải ai cũng có thể làm được.
Về sau, vua Thái Tông mới lập lệ cứ hàng năm, các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng Yên Thái, Hà Nội nay là làng Bưởi) làm lễ đọc lời thề rằng: “làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần linh giết chết”. Các quan ai trốn không đến thề, đều bị phạt 50 trượng. Việc vua Thái Tông cho lập lễ thề đền Đồng Cổ thể hiện mong muốn xây dựng khối đoàn kết trong nội bộ triều đình.
Khi Nùng Trí Cao làm phản, vua cử người đi đánh, bắt được Trí Cao nhưng vua nghĩ tình trước đó đã giết cha và anh của Trí Cao nên cũng không giết. Điều này đã khiến cho nhà sử học Lê Văn Hưu đánh giá là “không phân biệt mức độ, mất sự cân nhắc nặng nhẹ”, gây mối nguy hại về sau. Nhưng rồi, ông chỉ ra rằng: “Đó là vì Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua”18. Hay việc vua Nhân Tông tha tội chết cho tội mưu phản của Thái sư Lê văn Thịnh, cũng
GVHD: Khoa Năng Lập chết, là sai hình pháp đấy. Có lẽ đó là lỗi của vua tín sùng đạo Phật”19. Những lời nhận xét trên tuy hơi hà khắc nhưng nó lại cho thấy được ảnh hưởng của đức hiếu sinh trong Phật giáo có tác động lớn đến pháp luật thời Lý. Đấy chính là hành động thể hiện đức tính vị tha, hiếu sinh, lòng nhân từ của Phật trong luật pháp của nhà Lý. Các vị vua triều Lý rất quan tâm đến việc xây dựng khối đoàn kết trong hoàng tộc và khối đoàn kết toàn dân. Nhờ vậy mà đất nước ngày càng cường thịnh, nhân dân đồng lòng đánh bại các âm mưu phá hoại, xâm lấn của nhà Tống và Chiêm Thành. Lòng nhân từ của Đức Phật chi phối nội dung của luật pháp thời Lý. Đó là sự dung hòa giữa tư tưởng nhân sinh của Phật giáo với truyền thống thương người như thể thương thân của người Việt.
Đối với việc tranh chấp ruộng đất, nhà Lý quy định: nếu chỉ vì tranh chấp ruộng đất mà dùng vật sắc nhọn đã thương hay đánh người đến chết sẽ bị phạt 80 trượng và bị tội đồ. Các ruộng, ao tương tranh sẽ phải đền cho người bị thương hay bị giết. Với quy định này ta thấy, luật pháp thời Lý có tinh thần nhân ái, khoan dung nên các vua Lý đã xử phạt rất nhẹ. Nếu trước đây, giết người là một trọng tội thường được liệt nó vào tội thập ác nhưng ở thời Lý chỉ bị xử phạt trượng và tội đồ.
Pháp luật là một công cụ mà nhà nước đặt ra để duy trì tôn ti, trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân và quyền lợi của giai cấp thống trị. Dưới ảnh hưởng của giáo lý nhà Phật, luật pháp nhà Lý nổi bật lên tinh thần khoan dung, nhân ái đối với những người có tội, yêu thương và cảm thông sâu sắc với số phận của nhân dân nghèo, người già yếu và trẻ em. Do đó, nhà Lý chỉ áp dụng những mức hình phạt nhẹ nhằm tạo điều kiện cho họ có cơ hội để làm lại từ đầu. Chính tư tưởng từ bi của Đức Phật đã hòa quyện với tinh thần nhân ái của các vị vua thời Lý để họ xây dựng nên một bộ luật thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo và nhân quyền sâu sắc.
Sự khoan dung trong luật pháp cũng chính là biểu hiện cho đạo trị nước của các vị vua triều Lý. Các vua Lý vốn sống rất gần gũi với nhân dân, nên thấu hiểu sâu sắc nổi khổ của nhân dân. Do đó, họ đặc biệt chăm lo cuộc sống của dân, xem nổi đau của nhân dân như nổi đau của chính mình. Có thể nói là lòng nhân ái của các vị vua triều Lý đã vượt qua khỏi ranh giới giai cấp và địa vị xã hội. Như vậy, Đạo Phật đã có ảnh hưởng rất rõ rệt vào Luật pháp đương thời. Hình Luật nhà Lý mang nặng đức tính giáo hóa chúng
GVHD: Khoa Năng Lập sinh của Phật pháp hơn là việc trừng trị. Sự khoan hồng trong luật pháp thời Lý khác hẳn với tinh thần “pháp trị” trong luật pháp Trung Hoa. Có được điều ấy chính là kết quả của sự tác động giữa tính từ bi, cứu khổ cứu nạn của Phật giáo kết hợp với tinh thần khoan dung, “thương người như thể thương thân” của người Việt. Sự kết hợp của hai thành tố trên đã tạo nên một nét nhân văn sâu sắc trong luật phát thời Lý.