Những đóng góp của Phật giáo trên lĩnh vực kiến trúc – mỹ thuật

Một phần của tài liệu ảnh hưởng của phật giáo thời lý (1010 – 1225) (Trang 70 - 77)

Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN TÌNH HÌNH VĂN HÓA – GIÁO DỤC THỜI LÝ

3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tình hình văn hóa

3.1.3. Những đóng góp của Phật giáo trên lĩnh vực kiến trúc – mỹ thuật

Nói đến kiến trúc thời Lý chúng ta không thể không nhắc đến kiến trúc Phật giáo.

Sự phát triển của Phật giáo là một nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kiến trúc thời Lý phát triển. Trong nước số lượng tăng đồ rất đông, chùa chiền thì mộc lên khắp nơi, đâu đâu cũng đều thờ Phật. Đến nỗi về sau sử gia Lê Văn Hưu, lúc nói đến giai đoạn này phải kêu lên: “Nhân dân quá nữa làm sãi, trong nước chổ nào cũng có chùa”2.

Nhà vua và giới quý tộc quan lại phong kiến cho xây dựng nhiều chùa chiền. Năm Thuận Thiên nguyên niên (l010), “Thái Tổ sắc làm nhiều chùa ở phủ Thiên Đức, lấy tiền

GVHD: Khoa Năng Lập kho hai vạn quan để dựng 8 ngôi: trong thành Thăng Long dựng chùa Hưng Thiên Ngự, gần điện Thái Thanh dựng chùa Vạn Tuế, ngoài thành lại dựng những chùa Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Quang và Thiên Đức.

Triều đình lại sắc đi khắp các làng hễ chùa nào đổ nát thì phải tu bổ lại”3. Như vậy, bên cạnh kiến trúc hoàng thành Thăng Long, các ngôi chùa được mộc lên xen kẽ, kiến trúc Phật giáo có vị trí quan trọng và nổi trội hơn cả các công trình kiến trúc khác, thậm chí với cả kiến trúc cung đình. Sử gia Lê Văn Hưu nhận xét: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, Xã Tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại sữa chữa chùa quán ở các lộ và cấp độ điệp cho hơn nghìn người ở Kinh sư làm tăng, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể”4. Lời bàn của Lê Văn Hưu tuy có phần hà khắc nhưng cũng cho ta thấy được tầm ảnh hưởng của Phật giáo đến kiến trúc thời bấy giờ.

Ở những năm sau đó, việc xây chùa, đúc chuông, tạc tượng, xây nhà Bát giác để chúa Kinh Phật,… vẫn thường xuyên diễn ra. Năm 1014, vua Lý Thái Tổ phát 310 lạng vàng trong kho để đúc chuông treo ở chùa Hương Thiên và hàng trăm lạng bạc để đúc chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm. Năm 1033, vua Lý Thái Tông cho đúc quả chuông một vạn cân để ở lầu chuông Long Trì. Năm 1035, lại phát 6000 cân đồng đúc chuông chùa Trùng Quang. Năm 1040, khánh thành hơn 1000 pho tượng Phật và hơn 1000 bức tranh vẽ Phật, hơn 1 vạn lá bảo phướn. Năm 1041, vua Lý Thánh Tông cho phát 7560 cân đồng để đúc tượng Phật Di Lặc và hai vị Bồ tát Hải Thanh và Công Đức. Năm 1071, vua Lý Thánh Tông viết chữ “Phật” cao một trượng sáu thước (khoảng 5m), khắc vào bia đá chùa ở núi Tiên Du. Năm 1129, nhà Lý mở hội khánh thành 84000 bảo tháp (những tháp nhỏ bằng đất nung cao 20 – 25cm) ở tháp Thiên Phù…

Sau mỗi lần thắng trận từ Chiêm Thành về là các vua triều Lý thường cho xây các công trình kiến trúc để minh chứng cho chiến thắng của mình. Năm 1031, sau khi dẹp xong giặc Chiêm, vua Thái Tông cho lập 950 sở chùa. Khi xây xong, triều đình mở quốc hội và miễn thuế cho dân. Ngoài vua chúa, quan lại triều đình, nhân dân cũng là một lực lượng quan trọng trong xây dựng chùa chiền. Vốn sẵn lòng sùng tín đạo Phật, nhân dân Đại Việt đã tích cực đóng góp vào việc xây dựng chùa tháp: “Hễ bố thí vào việc nhà

GVHD: Khoa Năng Lập Phật, dù đến hết tiền của cũng không sẻn tiếc”. Bởi vậy, mỗi một ngôi chùa, mỗi một ngọn tháp dựng lên đều có sự quyên góp rộng rãi trong nhân dân. Năm 1088, vua Lý Nhân Tông cho phân chia các chùa làm ba hạn: đại danh lam (chùa có quy mô lớn), trung danh lam (chùa có quy mô vừa phải), tiểu danh lam (chùa nhỏ).

Có thể nói, trong lịch sử Việt Nam chưa có thời kỳ nào mà kiến trúc chùa tháp được triều đình và nhân dân chú trọng đến thế “Đây là một thời kỳ hoàng kim của kiến trúc Phật giáo, mà cũng là thời kỳ hoàng kim của một nền kiến trúc cổ Việt Nam”5. Hay Lê Văn Hưu thì cho rằng “làm chùa Phật thì lộng lẫy hơn cung điện nhà vua”. Nền văn hóa trong nghệ thuật kiến trúc tôn giáo thời Lý mang đậm dấu ấn của Phật giáo. Tiêu biểu là các công trình kiến trúc: chùa Một Cột (Hà Nội, 1049), tháp Báo Thiên (Hà Nội, 1057), chùa Phật Tích (Bắc Ninh, 1057), chùa Keo (Thái Bình, 1061), chùa Dạm (Bắc Ninh, 1086), chùa Báo Ân (Thanh Hóa, 1099), tháp Chương Sơn (Hà Nam, 1108), Sùng Thiện Diên Thánh (Thanh Hóa, 1117), chùa Diên Phúc (Nam Định, 1122), chùa Linh Xứng (Thanh Hóa, 1126),…Những công trình kiến trúc này đều có quy mô lớn, đồ sộ thể hiện được sự phát triển của kiến trúc Phật giáo trong giai đoạn này.

Trong An Nam tứ đại khí được sách vở đời Minh hết sức ca tụng là tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh thì đã có 3 công trình được xây dựng thời Lý. Với số lượng đông đảo, quy mô to lớn, những kiến trúc Phật giáo thời Lý đã làm phong phú thêm sức sống, chiều sâu cho nền văn minh Đại Việt.

Theo Chu Quang Trứ, “Mỹ thuật thời Lý rất rực rỡ, đậm chất dân tộc, là đỉnh cao thứ hai” sau đỉnh cao đầu tiên là mỹ thuật Đông Sơn6.

- Điêu khắc, tạc tượng Phật giáo:

Trên cơ sở kế thừa và phát triển của mỹ thuật thời Đông Sơn và sự tiếp thu văn hóa bên ngoài, lại có sự phát triển mạnh mẽ của kiến trúc Phật giáo, nghệ thuật điêu khắc thời Lý có những bước phát triển đáng kể. Song song với kiến trúc chùa chiền, nghệ thuật điêu khắc thời Lý đã đạt đến trình độ cao, mà tiêu biểu hơn cả là các công trình điêu khắc Phật giáo. Dưới thời Lý, xuất hiện nhiều công trình điêu khắc với kỹ thuật tinh tế, tinh

GVHD: Khoa Năng Lập xảo đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tạo, mang đậm dấu ấn của sự giao lưu văn hóa Chăm, Ấn Độ, Trung Hoa trên cơ sở văn hóa Việt.

Những công trình nghệ thuật điêu khắc Phật thời Lý hiện diện trên nhiều khía cạnh, không chỉ ở các công trình kiến trúc chùa chiền mà ngay cả trong kiến trúc đền đài, thậm chí trong cả kiến trúc hoàng cung. Trong đó nổi bật hơn cả là các môtíp trang trí hình hoa cúc, hoa sen, lá bồ đề, tượng Phật, chim phượng, thần Kinnari, linh điểu Garuda, thủy quái Makara, tượng thú,… đặc biệt là biểu tượng rồng uốn lượn trong lá bồ đề hay trải dài trên các bậc thềm.

Tuy nhiên, trãi qua nhiều năm tháng lịch sử các ngôi chùa thời Lý đều bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh và thời gian, đa số chỉ còn là những phế tích. Nhưng với những di tích còn lại và những gì được sách sử ghi lại cho thấy, kiến trúc Phật giáo thời Lý là đỉnh cao trong kiến trúc và thẩm mỹ của người Việt. Đặc biệt, các công trình kiến trúc Phật giáo thời Lý có sự giao lưu, tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng vẫn mang sắc thái riêng của văn hóa Việt.

- Đôi nét đặc điểm một số công trình tiêu biểu:

+ Chùa Một Cột đỉnh cao của kiến trúc Phật giáo thời Lý:

Chùa Một Cột hay còn gọi là chùa Diên Hựu được xây năm 1049. Đây là một ngôi chùa được xây nên theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông “vua nằm chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên”. Khi tỉnh dậy nhà vua nói lại với các quan đại thần, các đại thần cho đấy là điềm lành. Riêng nhà sư Thiền Tuệ thì khuyên nhà vua nên xây chùa trên một cái cột bằng đá dựng giữa ao theo hình tượng của hoa sen, gọi là chùa Diên Hựu với ngụ ý cầu mong cho nhà vua được sống lâu. Ngôi chùa có hình “lầu chuông một cột, sáu cạnh hình hoa sen” (độc trụ lục giác, liên hoa chung lầu).

Hình ảnh hoa sen với mộ cái cột vốn đã xuất hiện từ thời Đinh gọi là chùa Nhất Trụ. Nhưng đến thời Lý, hình tượng hoa sen với cái cột được thay đổi nhiều, phản ánh nét đặc sắc trong kiến trúc của người Việt với lối kiến trúc Chăm - Ấn. Cũng có nhiều ý kiến khác nhau về hình tượng của chùa Một Cột. Có ý kiến cho rằng hình tượng một cột của chùa là cái cột để đóng vào long mạch để giữ long khí cho nhà Lý. Có quan điểm lại

GVHD: Khoa Năng Lập cho rằng chùa Một Cột là biểu tượng của Linga và Yoni đại diện tượng trưng cho tục thờ Thánh Mẫu theo văn hóa Chăm mang đậm dấu ấn văn hóa phồn thực Ấn Độ. Nhưng cũng phải thấy rằng, tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu là một tín ngưỡng dân gian đã có từ lâu đời ở Việt Nam không phải là do ảnh hưởng từ bên ngoài.

Hình tượng hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” vốn đã xuất hiện từ lâu trong đời sống và tâm linh của người Việt. Nó là biểu tượng của cái đẹp, một nét đẹp thuần khiết đại diện cho nhân cách con người Việt Nam. Chùa Một Cột chính là sự kết tinh trong văn hóa dân tộc với tín ngưỡng Phật giáo. Chùa Một Cột là một ngôi chùa có kiến trúc tôn giáo độc đáo nhất Châu Á. Chùa Một Cột hiện nay chỉ là ngôi chùa dựng lại, có quy mô nhỏ hơn nhiều so với nhôi chùa ban đầu. Theo bia Sùng Thiện Diên Linh:

chùa được dựng trên một cột đá cao vọt lên giữa hồ Linh Chiểu và Bích Trì, mang hình bông sen nở nghìn cánh. Trong hồ có trồng nhiều sen, hành lang chạy dài bốn xung quanh là cả một bộ tranh tường, có cầu xanh lượn vòng đi vào. Đặc biệt, chùa có quả chuông lớn trong An Nam tứ đại khí, nặng đến nổi không treo lên được nên bỏ ngoài ruộng có nhiều rùa gọi là chuông Quy Điền.

+ Chùa Phật Tích (Bắc Ninh): Chùa Phật Tích hay còn gọi là chùa Vạn Phúc được xây dựng năm 1057, gắn liền với truyền thuyết một tòa tháp cao chọc trời. Trong chùa có tượng đầu người mình chim (Kinnara) và 10 con linh thú lớn như: sư tử, nghê, tê giác, voi,… thiên nữ đầu người mình chim đang chơi nhạc khí, những chạm trổ trên đá tìm được trên chùa Phật Tích có những con rồng mình rắn, mũi dài, miệng rộng kiểu thủy quái Makara của mỹ thuật Chiêm Thành và Nam Dương (Indonesia). Đây là những hình tượng tiêu biểu trong kiến trúc Bàlamôn giáo Ấn Độ mà nhà Lý chịu ảnh hưởng qua kiến trúc Chămpa.

+ Chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh): là ngôi chùa được xây dựng từ thời Tiền Lý và được xây dựng hoàn chỉnh từ thời vua Lý Thái Tông (1127 – 1138). Ngôi chùa có tượng Phật Di Lặc nổi tiếng được liệt vào An Nam tứ đại khí. Theo văn bia kể lại, tượng cao đến sáu trượng (khoảng 20m), nóc điện phải cao đến bảy trượng (khoảng 23m) mới có thể che sát đầu tượng. Người dân đứng xa tận bến đò Triều (cách chừng 5km) vẫn trông thấy rõ chùa. Tuy nhiên, dù chùa to rộng như thế nhưng hiện nay không còn.

GVHD: Khoa Năng Lập + Chùa Báo Ân (Thanh Hóa): Chùa Báo Ân được Lý Thường Kiệt cho xây năm 1099, nhằm để báo đáp công ơn của đức Phật sau khi giành được chiến thắng với Chiêm Thành quay về. Trong chùa có một pho tượng cao gần 2 mét ngồi trên một tòa sen, trên lưng có sư tử được chạm khắc rất tinh xảo, phía góc có hình chim Garuđa đỡ mặt bệ.

Ngoài ra còn có tảng đá kê cột chạm hoa sen, một bệ tượng chạm Garuđa,… cho thấy được sự giao lưu văn hóa mật thiết trong kiến trúc chùa thời Lý với kiến trúc Chămpa - Ấn Độ.

+ Chùa Dạm (Bắc Ninh): Chùa Dạm được Thái hậu Ỷ Lan cho dựng vào năm 1086 đến năm 1094 mới hoàn thành. Chùa còn có các tên khác như chùa Rạm, tên chữ là Đại Lãm Thần Quang tự, hay còn gọi là chùa Bà Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian (vì ngày xưa chùa có 100 gian nhưng không phải chùa Trăm Gian thuộc địa phận Hà Nội), cũng được gọi là chùa Lãm Sơn, theo tên núi. Chùa dựa vào núi Dạm là đại danh lam từ thời Lý và là một di tích quan trọng của tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Thái hậu Ỷ Lan là người cho xây cả 100 ngôi chùa, được nhân dân tôn sùng là Bồ Tát sống. Ngôi chùa này không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả bà Tấm là nhân vật có thật, theo truyền thuyết tương truyền cũng chính là Thái hậu Ỷ Lan. Bà Tấm chính là nhân vật nổi tiếng trong truyện cổ tích Tấm Cám của người Việt. Như vậy chùa không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là nơi thờ cúng cả những nhân vật có thật được nhân dân yêu mến. Điều này cho thấy được sự pha pha trộn trong văn hóa Phật giáo của nước ta thời Lý, đó là sự trộn lẫn giữa tục thờ Phật với tín ngưỡng tôn thờ những người anh hung hay những người có nhiều công lao với nhân dân, đối với đất nước.

+ Chùa Keo (Thái Bình): Chùa Keo còn có tên chữ là Thần Quang tự. Tương truyền, ngôi chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng năm 1061 dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy (nay thuộc tỉnh Nam Định). Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, sau đó mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo. Theo văn bia chùa thì diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng khoảng 58.000 m², có 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu

“Nội công ngoại quốc”. Chùa được trùng tu xây dựng nhiều lần qua nhiều thời đại nhà

GVHD: Khoa Năng Lập Mạc, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh,... Chùa Keo là một kiến trúc Phật giáo bằng gỗ rất độc đáo của Việt Nam được lưu giữ khá nguyên vẹn đến ngày nay.

+ Kiến trúc đền tháp:

Một nét nổi bậc khác trong kiến trúc tôn giáo thời Lý là các đền tháp. Đây được xem là những kiến trúc cao tầng đầu tiên của dân tộc. Kiến trúc đền tháp là những cụm kiến trúc trung tâm, gồm một tháp hình vuông, mái nhọn thon tượng trưng cho ngọn núi, vũ trụ, xung quanh là sông nước, ao, hào,…thể hiện sự ảnh hưởng của người Ấn Độ đối với quan niệm về thế giới vũ trụ của người Việt.

Chùa Long Đọi (Hà Nam) thì lấy tháp báu Sùng Thiện Diên Linh làm trung tâm rồi quanh nó: “bên tả chùa thì dựng cung tứ giác ngậm hai mâm trấn đất, đội tám tướng chầu giới, nêu cao khí tượng cho danh sơn, xung quanh xây dựng tường bảo vệ”. Tháp Báo Thiên (Thăng Long) có tên chữ là Đại Thắng tư Thiên Bảo tháp, được xây trên gò bên hồ Lục Thủy sau khi đánh bại quân xâm lược Tống. Tháp được dựng lên nhằm để tạ ơn trời phật, tương truyền tháp có 12 tầng và cao hai mươi trượng (khoảng 70 mét), các tầng trên được đúc bằng đồng, tháp được mệnh danh là một trong tứ đại khí của nước ta.

Tiếc rằng, đến năm 1414, tháp bị tướng Vương Thông của nhà Minh phá để lấy gạch đá chống lại nghĩa quân Lam Sơn. Tháp Báo Thiên là một công trình kiệt tác của Thăng Long thời Lý mà nhà thơ Phạm Sư Mạnh đã có một bài thơ ca ngợi tháp như là cột chống trời sừng sừng giữa Thăng Long, giữ cho sự yên ổn của sơn hà:

Trấn áp đông tây giữ đế kỳ Một mình cao ngất tháp uy nghi Chống trời cột trụ non sông vững Sừng sừng ngàn năm một đỉnh chùy”.

Tháp Chương Sơn (Hà Nam) được dựng trong 9 năm (1108 – 1117), có hình vuông, kiến trúc đá lớn với những hình vũ nữ thành bậc tháp thể hiện tạo hình của người Việt nhưng nét mặt rất gần gũi với điêu khắc Chăm, có tượng chim thần mang dốc dáng con Garuda. Hình vũ nữ tư thế đỡ bệ ở chùa Long Đọi, tháp Báo Thiên (Thăng Long) có cấu trúc lộ rõ nét văn hóa tương đồng trong kiến trúc Đông Nam Á – Việt – Chăm dưới

GVHD: Khoa Năng Lập sự ảnh hưởng của văn hóa kiến trúc Ấn Độ. Tháp có đến mười ba tầng, cao vọt lên trời, mở 40 cửa hứng gió. Hiện nay, tháp không còn nhưng qua khai quật, cho thấy tháp có chân hình vuông cạnh dài hơn 19m.

Như vậy, có thể khẳng định rằng kiến trúc Phật giáo thời Lý là một đóng góp to lớn của Phật giáo cho di sản văn hóa độc đáo của dân tộc. Nhà sư Thích Thông Đức có nhận xét: “ngôi chùa là thể hiện sự đoàn kết toàn dân, nơi quy tụ các thành phần xã hội, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, trai gái. Họ cùng nhau góp sức trong sự nghiệp chung, không chỉ phục vụ cho xã hội mà còn thoả mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng thông qua các lễ hội”7.

Một phần của tài liệu ảnh hưởng của phật giáo thời lý (1010 – 1225) (Trang 70 - 77)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(97 trang)