Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN TÌNH HÌNH VĂN HÓA – GIÁO DỤC THỜI LÝ
3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tình hình văn hóa
3.1.2. Những đóng góp của Phật giáo trên lĩnh vực sáng tác văn học
Phật giáo thời Lý là thời kỳ cực thịnh nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Phật giáo không chỉ có những đóng góp quan trọng về chính trị - tư tưởng mà còn để lại dấu ấn đậm nét trong thi ca đương thời. Có thể nói thi ca Phật giáo thời Lý là khởi nguồn cho sự phát triển nền văn học Việt Nam. Thi ca Phật giáo bao trùm nền văn học thời Lý, nó thể hiện được sức sống của nền văn học dân tộc, mang đậm dấu ấn của nền văn học nhân bản Phật giáo.
Trên nền tảng tư tưởng của Phật giáo, thi ca thời Lý đặc biệt chú ý đến việc lý giải, thể hiện quan niệm về bản chất của các dạng thức tồn tại như pháp, pháp tính, chân, sắc thân, tự thể, tâm, ngã,… Những tác phẩm thi ca Phật giáo thời Lý chủ yếu được thể hiện qua các quan điểm sau:
+ Thơ thiền thể hiện quy luật đời người không ngừng biến đổi thịnh – suy, có – không, sinh – tử. Chẳng hạn như bài kệ “Thị đệ tử” của Thiền sư Vạn Hạnh:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
GVHD: Khoa Năng Lập Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân như ánh chớp có rồi không Cây cỏ xuân tươi thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn nhưng Thiền sư Vạn Hạnh đã nêu lên cả một triết lý sâu sắc về cuộc đời. Vạn vật, vũ trụ đều mang trong nó những tính đổi dời, vô thường, vô ngã. Đời người cũng như vạn vật đều luôn luôn biến đổi không ngừng, giữa được và mất, có và không cũng luôn không ngừng biến đổi. Đời người sinh – tử cũng như là ánh chớp, cuộc đời thịnh – suy cũng chỉ như là hạt sương lấp lánh trên ngọn cỏ có rồi lại không. Cả đời Ngài đã cống hiến hết mình vì sự phát triển của đất nước, vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh. Mặc dù có nhiều công lao nhưng Ngài cũng chỉ xem phú quý như cây cỏ có rồi không.
+ Văn thơ Phật giáo thời Lý thể hiện tình yêu quê hương đất nước, sự giải thoát tự tại, với tinh thần “nhập thế mà không trụ thế”, chứa đựng những triết lý sâu xa nhưng rất gần gũi với con người. Như bài thơ “Ngôn hoài” của Thiền sư Không Lộ:
Trạch đắc long xà địa khả cư, Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh, Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Nguyễn Lang dịch:
Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ Vui với tình quê quên sớm trưa Có lúc trèo lên đầu chóp núi Kêu dài một tiếng lạnh hư vô.
GVHD: Khoa Năng Lập (Việt Nam Phật giáo sử lược, Tập I)
Bài thơ thể hiện niềm vui của tác giả khi chọn được đất tốt để xây chùa.Hình ảnh con người và thiên nhiên được dung hòa, mang khát vọng hào nhập và chế ngự thiên nhiên thể hiện qua “Kêu dài một tiếng lạnh hư vô”. Nhưng tiếng kêu ấy không phải là một tiếng kêu than mà là một sự chứng ngộ, sảng khoái của một thiền sư ung dung, tự tại, không câu nệ những ham muốn của thế giới trần tục.
+ Thể hiện triết lí vũ trụ nhân sinh, về quan niệm siêu việt hữu vô của thực tại, chẳng hạn khi bàn về “nguồn gốc cái tâm của Phật Tổ” thì vua Thái Tông có làm bài kệ:
Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không Quá, hiện, vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng.
Dịch:
Bát nhã vốn không tông Nhân không, ngã cũng không Ba đời các đức Phật
Pháp tính vốn chung đồng.
(Nguyễn Lang – Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I)
Qua những câu thơ trên, cả một triết lý sâu rộng về vũ trụ, nhân sinh được thể hiện. Mọi vật, mọi người đều mang trong tự thể cái tính đổi dời: vô ngã, vô thường, có - không, còn - mất…Bản thể tuyệt đối được mệnh danh là Tâm hay Chân Như. Nên giữa Phật (người giác ngộ) và chúng sinh (người chưa giác ngộ) không còn biên giới cách ngăn nữa “Pháp tính vốn chung đồng”.
Thiền sư Huệ Sinh cũng làm một bài kệ để trả lời vua Lý Thái Tông:
Pháp bản như vô pháp Phi hữu diệc phi không Nhược thân tri thử pháp
GVHD: Khoa Năng Lập Chúng sinh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt Không không độ hải chu Tri không, không giác hữu Tam muội nhậm không chu.
Dịch:
Pháp cũng như vô pháp Không hữu cũng không không Nếu đạt được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng.
Trăng Lăng Già lặng chiếu Thuyền vượt biển trống không Không cũng không như có Định tuệ chiếu vô cùng.
(Đạo Phật và dòng sử Việt)
Bài thơ mang một hàm ý sâu xa, lý giải được cái gốc căn bản của từ Pháp, vượt lên trên cả lẽ Có và Không. Hồn thơ chuyển động, phiêu du, thể hiện tư tưởng triết lý của Phật, làm thức tỉnh chúng sinh. Nếu như có thể lí giải được, không chấp nhất vào sự có và không thì giữa chúng sinh (người chưa giác ngộ) và Phật (người giác ngộ) sẽ không còn ranh giới nữa.
Hay câu thơ của Từ Đạo Hạnh:
Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không Hữu không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không.
Dịch:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả vũ trụ này cũng không
GVHD: Khoa Năng Lập Có, không bóng nguyệt lòng sông
Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào.
(Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I) Con người vốn dĩ thường hay luôn chấp nhất, xem trọng phú quý, danh lợi. Họ không thể nhận thức được rằng có hay không chỉ nằm trong một ý niệm. Do đó, họ luôn lẫn quẩn trong dòng luân hồi, không có lối thoát. Chỉ khi nào ta trút bỏ được tham - sân - si thì mới cỏ thể tìm được con đường sáng. Bài thơ là một kiệt tác trong thơ thiền, thể hiện sự giác ngộ, giải thoát khỏi những ham muốn trần tục.
+ Thể hiện tình cảm, cảm xúc, nghiền ngẫm qua cái nhìn sắc sảo đối với thiên nhiên và đời người như bài Cáo tật thị chúng của Thiền sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá, Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Thích Thanh Từ dịch:
Xuân qua trăm hoa rụng, Xuân lại nở trăm hoa.
Trước mắt việc đi mãi, Trên đầu, già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một cành mai.
(Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I)
Với lối sống ung dung tự tại, các thiền sư thời Lý đã nhận thức được chân tướng của vạn vật, của vũ trụ. Đối với những con người phàm phu thì sự sống chết luôn đem đến cho họ những nỗi sợ hãi, âu lo. Nhưng với các thiền sư thì sống hay chết cũng như sự
GVHD: Khoa Năng Lập chân lý, một quy luật của cuộc sống, vạn vật đều luôn chuyển đổi không ngừng. Đó là lẽ vô thường của cuộc đời. Vũ trụ luôn tuần hoàn trái với sự ngắn ngủi của đời người, nhưng cho dù mất đi thì vẫn còn để lại những cái hay, cái đẹp, tinh hoa cùng vũ trụ.
+ Thể hiện cái “hư vô” trong nhận thức về thế giới trần tục:
Thiền sư Ngộ Ẩn:
Diệu tính hư vô bất khả phan, Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, Liên phát lô trung thấp vị can.
Dịch:
Chân Như Diệu Tính vô ngôn thuyết, Chỉ ngộ Chân Như mới hiểu thôi, Trên núi ngọc thiêu màu tỏa sáng Trong lò sen nở sắc khoe tươi.
Thiền sư Minh Trí:
Tùng phong thủy nguyệt minh, Vô ảnh diệc vô hình
Sắc thân giá cá thị,
Không không tầm hưởng thanh.
Nam Trân dịch:
Gió cành thông, lòng sông trăng sáng, Bóng cũng không, hình dáng cũng không.
Sắc thân, thân sắc đều không, Như tìm tiếng dội trong vòng hư vô.
(Trích từ Đạo Phật và dòng sử Việt) + Thể hiện cái đẹp qua hình ảnh thiên nhiên, cây cỏ:
Thiền sư Không Lộ:
GVHD: Khoa Năng Lập Vạn Lý thanh giang vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên.
Ngư ông thùy trước vô nhân hoán, Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.
Kiều Thu Hoạch dịch:
Trời xanh nước biếc muôn trùng,
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay Ông chài ngủ tít ai hay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.
(Trích từ Đạo Phật và dòng sử Việt)
Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng hình ảnh thiên nhiên hiện lên thật sinh động.
Bài thơ như là một bức tranh sơn thủy hữu tình của một vùng quê tươi đẹp. Hình ảnh trời xanh, nước biếc, dâu đay trong một thôn xóm hiện lên với những làn khói lan tỏa càng tô điểm thêm vẻ đẹp của thiên nhiên huyền ảo. Hình ảnh ông chài ngủ say trên thuyền và
“tuyết rơi đầy thuyền” càng tăng thêm vẻ đẹp của một vùng quê thanh bình, mờ ảo. Bài thơ mang cảm xúc tinh tế, thể hiện tâm hồn mông lung trong cõi hư vô, huyền ảo.
Qua các tác phẩm thơ văn Phật giáo để lại, ta thấy rõ tư tưởng chủ đạo của các thiền sư thời Lý là một tinh thần nhập thế cống hiến hết mình vì đất nước và tinh thần nhân bản, nhân văn sâu sắc, toát lên sự giải thoát tự tại, chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc. Qua những câu thơ, ta thấy được cái đẹp trong tinh thần nhập thế mà không trụ thế của các thiền sư. Có thể nói thơ thiền thời Lý đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, thấu triệt lẽ sinh – tử, có – không, vô thường, vô ngã của cuộc đời, tuy có nhập thế vào đời nhưng không bị bó buột vào cuộc sống phàm tục. Bên cạnh đó, Văn học Phật giáo thời Lý đã góp phần mở ra một chương mở đầu xuất sắc cho nền văn học Việt Nam. Bao trùm nền văn học thời Lý là các sáng tác của các thiền sư, một số ít khác thì cũng là người có thiện cảm với Phật giáo. Tuy những tác phẩm còn lại không được nhiều nhưng cũng có thể thấy được công lao to lớn của Phật giáo đối với sự phát triển của nền văn học nước ta thời bấy giờ.
GVHD: Khoa Năng Lập - Văn bia Phật giáo
Nhà Lý là triều đại mà Phật giáo phát triển đến đỉnh cao. Các vua thời Lý là những tín đồ của Phật đã cho xây dựng nhiều công trình kiến trúc Phật giáo. Trong đó, văn bia là một loại công trình đặc sắc có nhiều giá trị về văn hóa lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, trãi qua nhiều năm tháng lịch sử, các văn bia thời Lý đã bị mai một nhiều, số lượng còn lại rất ít. Các văn bia Phật giáo giai đoạn này chủ yếu được dựng lên là do chủ trương của nhà nước, có khi là nhà vua, có khi là quan lại, có khi là các thiền sư. Văn bia Phật giáo thời Lý là nguồn tư liệu quý, có giá trị về nhiều phương diện như văn học, lịch sử, tư tưởng, khảo cổ,…
Xét về hình thức, văn bia Phật giáo thường có 2 loại: văn bia công trình để ghi dấu về quá trình dựng tháp hay tượng Phật, văn bia hậu để lưu tên những người có hảo tâm cúng giường cho chùa, hay ghi lại thân thế, sự nghiệp của những người có nhiều công lao đối với đất nước, đối với nhân dân trong vùng. Văn bia thường được khắc trên đá, ít bằng gỗ hoặc đồng. Vì đá là một vật liệu phổ biến, dễ khắc và có độ bền cao. Về mặt tạo hình, trang trí bia đá tạo kết quả thẩm mỹ cao hơn so với đồng và gỗ. Bia đá thường bắt đầu bằng câu “dĩ thọ kỳ truyền”, tức là để cho những sự kiện được tồn tại lâu dài.
Về nội dung: văn bia chủ yếu ghi chép về lý do, quá trình xây dựng ngôi chùa, chép lại sự kiện lớn của đất nước, ghi công trạng của người dựng chùa,…Đặc điểm nổi bật của văn bia thời Lý là tư tưởng Phật giáo được thể hiện một cách rõ nét. Ngoài ra, văn bia thời Lý còn là những tư liệu lịch sử có giá trị lớn trong nghiên cứu văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc.
Một số văn bia tiêu biểu:
+ Bài minh khắc vào chuông chùa Thiên Phúc (Bắc Ninh) do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng, thiền sư Huệ Hưng viết vào năm Nguyên Hóa thứ 9 (1109). Nội dung bài minh nói về thân thế, sự nghiệp, cũng như công đức của thiền sư Từ Đạo Hạnh và quá trình tìm đất xây dựng chùa.
+ Bia chùa Báo Ân (Thanh Hóa) do Chu Văn Thường soạn, dựng năm Hội Phong thứ 9 (1100). Bia có tên chữ là An Hoạch sơn Báo Ân tự bi minh, có nghĩa là bài minh của bia chùa Báo Ân núi An Hoạch (hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt
GVHD: Khoa Năng Lập Nam – Hà Nội). Nội dung bia ghi lại nhiều điều về thân thế cũng như sự nghiệp của Lý Thường Kiệt. Theo những nội dung trong văn bia thì năm 1082, vua Lý Nhân Tông đã đặt riêng một quận ở Thanh Hóa cho Lý Thường Kiệt làm phong ấp.
Dưới sự cai quản của ông, nhân dân có cuộc sống ấm no, giặc sợ hãi, nhân dân mến phục. Ngoài ra, tấm bia còn cho biết Thái úy Lý Thường Kiệt nhân một lần đi thăm vùng An Hoạch (núi Nhồi), tìm ra loại đá “sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt... đẽo thành khánh, đánh lên thì tiếng ngân muôn dặm, dùng làm văn bia, văn chương để lại thì còn mãi ngàn đời”. Từ đó, nhân dân trong vùng có thêm một nghề mới – nghề chạm khắc đá giúp cho đời sống kinh tế được phát triển. Để ghi nhớ công đức của Thái uý, nhân dân địa phương cho xây dựng ngôi chùa thể hiện lòng biết ơn của người dân vùng An Hoạch đối với vị quan trấn trị nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Hiện nay, chùa Báo Ân không còn, không thể xác định được vị trí cụ thể.
+ Bia chùa Bảo Ninh (Tuyên Quang) do Lý Thừa Ân soạn, dựng năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 7 (1107). Tấm bia được tạc bằng đá xanh nguyên khối, cao 1,39 m, rộng 0,8 m và dày 0,18 m. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá cũng được tạc bằng một phiến đá xanh nguyên khối có nét chạm khắc rất tinh tế, cân đối. Trán bia khắc dòng chữ lớn: “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi”. Thân bia được khắc 25 dòng với 1.130 chữ. Bên trán bia là tượng hai con rồng trong tư thế nhìn nghiêng chầu, với các hoa văn hình vân mây và một số hoa văn hình chữ S. Biểu hiện ý niệm về mây mưa, sấm chớp, cầu mong mưa thuận gió hòa trong quan niệm của nền kinh tế nông nghiệp. Hình tượng con rồng cũng phản ánh ý thức tự hào của người Việt về truyền thuyết con Rồng - cháu Tiên, sự tự hào về truyền thống dân tộc.
+ Bia chùa Diên Phúc (Hưng Yên) do Công Diễm soạn, dựng năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113). Bia có tên chữ là Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh (bài minh chùa Diên Phúc ở thôn Cổ Việt). Nội dung bia nói về Đỗ Anh Vũ được phong chức Thái úy thượng phụ được trao quốc tính. Văn bia còn ghi rõ việc Đỗ Anh Vũ được phong đất đai, được miễn phu dịch ba họ.
+ Bia chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh (Thanh Hóa) do Đại sư Hải Chiếu (hay còn
GVHD: Khoa Năng Lập khoảng 110cm rộng 70cm, có trang trí hình rồng xoắn và dây leo đời Lý. Nội dung bia nói về thân thế cũng như sự nghiệp của Lý Thường Kiệt khi ông còn giữ chức Tổng trấn Thanh Hóa.
+ Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh do Nguyễn Công Bật soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121). Bia có tên chữ là Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (Bia Sùng Thiện Diên Linh của vi hoàng đế thứ tư của triều đại nhà Lý ở nước Đại Việt). Đặt tên như vậy để cầu mong vận mệnh của quốc gia và tuổi thọ nhà vua được thêm cao, nhà vua Lý Nhân Tông đích thân đặt tựa đề cho bia theo lối chữ phi bạch.
Chữ này có từ thời nhà Hán thường dùng cho lối viết chữ thư pháp sau này. Bia có giá trị lớn về tư liệu lịch sử thời Lý, bia cao chừng 2m đặt trên một bệ đá trang trí hình rồng mang ý nghĩa thể hiện vương quyền của vua (thông thường là đặt trên lưng rùa mang ý nghĩa trường thọ). Nội dung bia ghi lại toàn bộ tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa thời Lý như kinh phật, tích dời đô, chùa Một Cột, nghề nghiệp phục vụ cho lễ hội (múa rối nước), cuộc sống của nhân dân, ca ngợi thời đại văn minh thịnh trị của đất nước,...
+ Bia chùa Linh Xứng (núi Ngưỡng Sơn – Thanh Hóa) do thiền sư Pháp Bảo – một vị sư có mối quan hệ mật thiết với Lý Thường Kiệt soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126). Nội dung bia rất dài, trong đó có nói về thân thế, sự nghiệp, nhân cách của Lý Thường Kiệt cũng như công lao của ông trong sự nghiệp giữ nước của triều Lý, quá trình tìm đất, quyên tiền của để xây dựng chùa. Hiện nay, chùa không còn nhưng tấm bia vẫn được lưu giữ trong đền Lý Thường Kiệt. Qua những nội dung trong bia có thể thấy rõ sự sùng Phật của Lý Thường Kiệt “Thái úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn hướng về đạo Phật”. Đồng thời cũng phản ánh sự phát triển đến đỉnh cao của Phật giáo, khẳng định Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và nhân sinh quan của người Việt lúc bấy giờ.
+ Bia chùa Phật Tích hay chùa Thầy (Quốc Oai, Hà Tây). Bia có tên Phật Tích sơn Từ Đạo Hạnh pháp sư điền địa kệ chí (Kệ chí ghi ruộng đất của Pháp sư Từ Đạo Hạnh núi Phật Tích). Bia được khắc lại vào thế kỉ XIV, có tư liệu về ruộng đất của pháp sư Từ Đạo Hạnh thời Lý. Hiện nay, bia này bị mòn, nhiều đoạn không đọc được. Bia có ghi rõ số ruộng đất mà pháp sư Từ Đạo Hạnh sỡ hữu, gồm có hai bộ phận: 30 diện 64 sào để lưu