Chương 2. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO VỀ CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG – THỜI LÝ
2.2.4. Tính nhập thế tích cực của Phật giáo thời Lý
Phật giáo thời Lý đã đạt đến một nguyên lý sâu rộng “bao hàm được cả truyền thống nhập thế hữu vi lẫn truyền thống xuất thế vô vi”. Đây là quan điểm tích cực, mang đậm tính nhân văn sâu sắc của các thiền sư Cửu Chỉ (? – 1059), thiền sư Thông Biện (? –
GVHD: Khoa Năng Lập 1134), thiền sư Ngộ Ẩn (? – 1088)… Phật giáo khi mới ra đời ở Ấn Độ là một tôn giáo chủ trương xuất thế nhưng khi du nhập vào nước ta Phật giáo đã chuyển từ tư tưởng xuất thế sang tư tưởng nhập thế tích cực.
Theo thiền sư Cửu Chỉ thì “Khổng giáo và Mặc giáo thiên chấp vào có (thế gian), Trang học và Lão học chủ trương không. Sách điển thế tục chẳng phải phương pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo là không nhận có hay không của thế giới hiện tượng mới có thể thấu Triệt lẽ sống chết”31. Chính tinh thần khai phóng và rộng mở, không bị ràng buột bởi những tính giáo điều khô khan và sự uyển chuyển linh hoạt là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển của Phật giáo thời Lý. Khi du nhập và nước ta, Phật giáo đã đi từ tư tưởng tiêu cực xuất thế sang tư tưởng tích cực nhập thế mà người đại diện tiêu biểu cho tư tưởng này là thiền sư Vạn Hạnh. Tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời Lý chính là kết quả của sự dung hòa giữa giáo lý từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn của Phật giáo với những đạo lý truyền thống thương người như thể thương thân của người Việt.
Các nhà sư thời Lý đã “đem Đạo vào Đời, trong Đời có Đạo” để phụng sự dân nhân, phụng sự đất nước. Yếu tố “Đạo và Đời” tuy hai mà một, tuy một lại hai. Bởi chúng ta không thể quy đồng yếu tố này thành một hay tách rời nó thành hai, cả hai có sự hòa quyện, đan xen vào nhau. Đây là một triết lý nhập thế sâu sắc mà các thiền sư thời Lý đã đúc kết được từ giáo lý của Phật giáo với tư tưởng truyền thống của người Việt. Các nhà sư tuy tu hành, giữ giới luật, không tranh giành với đời nhưng không phải thế mà hoàn toàn thoát li với đời, không quan tâm đến cái khổ của chúng sinh. Do đó, người tu hành ngoài việc tu Đạo còn phải biết tu Đời, tu và tục không tách rời nhau, tức là phải biết đem những tinh hoa giáo lý của Đạo để phục vụ cho Đời, giáo hóa chúng sinh, cứu nhân độ thế, đưa họ đến với cái thiện, cái đẹp. Lý tưởng tu hành “Đời Đạo song tu” là một triết lý nhân sinh sâu sắc của các nhà sư. Đây là một triết lý tu hành của các nhà sư không chỉ có riêng ở thời Lý mà ở các giai đoạn phát triển sau này.
Tư tưởng Phật giáo là một tư tưởng đầy khai phóng và rộng mở, không khép kín trong khuôn khổ những quy tắc giáo điều. Chính tư tưởng ấy đã giúp các nhà sư có cái nhìn rộng mở, thông thái, khoan dung và độ lượng đối với đời. Dưới thời Lý đã có nhiều vị Thiền sư vào đời giúp vua trị nước an dân. Dù đang tu hành nhưng khi triều đình và
GVHD: Khoa Năng Lập nhân dân cần đến thì họ vẫn sẵn sàng xông pha trong cuộc đời, xong nhiệm vụ thì trở lại nếp sống an vui, thanh tịnh.
Tính chất rộng mở trong “Đạo và Đời” còn được thể hiện qua những hệ thống kiến trúc của nhà chùa. Nhà chùa không chỉ là chốn trang nghiêm thờ tự mà là nơi luôn mở rộng cửa đón khách thập phương tới lễ bái, đón tiếp những người có thành tâm hướng thiện. Phật giáo cho rằng chúng sinh đều có Phật tính, đều có tính thiện, có khả năng giác ngộ và giải thoát, có khả năng thành Phật. Do đó, cửa nhà chùa luôn luôn rộng mở cho những ai biết giác ngộ, có thành tâm sám hối. Không những thế, nhà chùa còn là nơi chữa bệnh cho dân, là nơi dạy chữ và đức cho người Việt.
Với tinh thần nhập thế tích cực, Phật giáo đã tạo nên một sức sống mạnh mẽ vượt qua cả ranh giới về địa lý, văn hóa, tôn giáo, ý thức hệ, thời gian và không gian. Tư tưởng
“từ bi hỷ xả” và tinh thần hi sinh “vô ngã vị tha” của Phật giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn của người Việt và hòa quyện với đạo đức truyền thống dân tộc. Điều này đã tạo nên tính hướng thiện và những ảnh hưởng tích cực, sâu sắc trong tâm hồn mỗi người dân nước Việt. Đó là một cái tâm khát khao một thế giới hòa bình an lạc, tôn trọng sự sống muôn loài, muôn vật, đó là tình yêu thương lẫn nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau mỗi khi có hoạn nạn. Phật giáo chủ trương chúng sinh bình đẳng không phân biệt, mọi người đều có quyền lợi như nhau. Do đó mọi người đều có quyền được sống tự do và hạnh phúc.
GVHD: Khoa Năng Lập CHÚ THÍCH CHƯƠNG 2:
1.Thích Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, Bản điện tử lưu trữ tại website:
http://www.quangduc.
2. Nguyễn Khắc Thuần, Lịch sử trung đại Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin, 2002, tr.112.
3. Trung tâm Khoa học và Nhân văn quốc gia – Viện nghiên cứu Hán Nôm, Đại Việt sử ký tiền biên, NXB Văn hóa – Thông tin, 2011, tr.237.
4. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký Toàn thư (Tập I), NXB Văn Hóa Thông Tin, 2004, tr.294.
5. Đại Việt sử ký tiền biên, sđd, (Quyển II), tr.257.
6. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Văn Học, 2008, tr.103.
7. Áo hồ cừu: là loại áo được làm bằng da cáo hay chồn để giữ ấm.
8. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr.318.
9. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr.324.
10. Ngô Thì Sỹ, Việt sử tiêu án, Bản điện tử lưu tại trang http://share-book.com, tr50.
11. Đại Việt sử ký tiền biên, sđd, (Quyển III), tr.314.
12. Trích từ Nguyễn Đăng Thục, Lịch tư tưởng Việt Nam, Tập III, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr.88 – 89.
13. Trích từ Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập III, sđd, tr.92.
14. Việt sử tiêu án, sđd, tr.34.
15. Đại Việt sử ký Toàn thư, sđd, tr.302.
16. Những tội liệt vào tội Thập ác là: mưu phản, mưu đại nghịch, mưu loạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân.
17. Việt Nam sử lược, sđd, tr.105.
18. Đại Việt sử ký Toàn thư, sđd, tr.306.
19. Đại Việt sử ký Toàn thư, sđd, tr.337.
20. Thơ văn Lý Trần, (Tập I), trích dẫn từ Đạo Phật và dòng sử Việt, tr.133.
GVHD: Khoa Năng Lập 22. Việt Nam sử lược, sđd, tr.99.
23. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập III, sđd, tr.130.
24. Trích từ Nguyễn Quang Ngọc, Vương triều Lý (1009 – 1226), NXB Hà Hội, 2010, tr.579.
25. Đại Việt sử ký tiền biên, sđd, (Quyển II), tr.135.
26. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập III, sđd, tr.141.
27. Ký lục là văn bằng cấp cho những đạo sĩ.
28. Đại Việt sử ký Toàn thư, sđd, tr.308.
29. Huỳnh Công Bá, Lịch sử Việt Nam, NXB Thuận Hóa, 2008, tr.151.
30. Nguyễn Khắc Thuần, Tiến trình văn hóa Việt Nam - Từ khởi thủy đến thế kỷ XIX, NXB Giáo Dục, 2006, tr.366.
31. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập III, sđd, tr.72.
GVHD: Khoa Năng Lập