Kinh nghiệm về quản trị rủi ro thanh khoản tại các NHTM trên thế giới và

Một phần của tài liệu Quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn hà nội (Trang 32 - 36)

1.3 Bài học kinh nghiệm về quản trị rủi ro thanh khoản của một số ngân hàng

1.3.1 Kinh nghiệm về quản trị rủi ro thanh khoản tại các NHTM trên thế giới và

1.3.1.1 Ngân hàng tại Ấn Độ

Theo Miguel Delfiner, Claudua Lippi & Cristina Pailhe (2006), ngân hàng Trung ương đã chuẩn bị hướng dẫn bao gồm những đề xuất của tổ chức tài chính qua các các buổi hội thảo, các cuộc họp với ban quản lý ngân hàng từ tháng 4/1999. Mục

đích của nó là hướng dẫn các tổ chức tài chính thiếu hệ thống Quản lý tài sản nợ có (ALM: Asset – liability management). Những ngân hàng chấp nhận những hệ thống phức tạp này có thể tiếp tục sử dụng nó, tuy nhiên cũng cần kiểm tra lại những hệ thống đó có nằm trong hướng dẫn của Ngân hàng Trung ương hay không. Ban đầu các tổ chức tài chính phải đảm bảo bảo hiểm 60% tài sản và các khoản nợ của họ. Đối với 40% còn lại thì họ phải dựa trên các ước lượng. Sau đó, các ngân hàng cần phải thiết lập mục tiêu là bảo đảm được cho 100% tài sản và các khoản nợ từ tháng 4/2000. Một khi các ngân hàng đạt được mục tiêu này thì họ sẽ có vị thế để đạt được những kỹ thuật phức tạp hơn như phân tích khoảng cách kỳ hạn, sự mô phỏng, giá trị có rủi ro cho rủi ro lãi suất.

Các tổ chức tài chính phải thiết lập ban quản lý tài sản nội bộ để kiểm soát việc thực hiện hệ thống ALM và xem xét hoạt động định kỳ. Ngoài ra, hội đồng này cũng cần chuẩn bị báo cáo về cơ cấu thanh khoản để đánh giá cấu trúc dòng tiền mặt ra vào định kỳ nửa tháng một lần. Các nhà quản lý cấp cao sẽ là người quyết định các mức độ đáo hạn khác nhau.

Quy định về hệ thống ALM cho các ngân hàng: ALM không những cung cấp một nền tảng để đo lường, giám sát, quản lý thanh khoản, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tài sản cho các ngân hàng mà những yếu tố này cần được kết hợp thành chiến lược kinh doanh. Chiến lược này gồm có đánh giá các loại rủi ro, danh mục tài sản nợ có thay thế. ALM được thiết lập dựa trên nền tảng quản lý xác định các chính sách rủi ro và giới hạn cho phép. Về phương pháp, quy định này ám chỉ đến rủi ro thanh khoản và lãi suất. Quy định ALM chỉ bao gồm các giao dịch ngân hàng bằng đồng nội tệ.

Về quản trị rủi ro thanh khoản:

Việc quản lý ngân hàng không chỉ đo lường trạng thái thanh khoản mà còn phải được kiểm tra sự phát triển theo nhiều giả định khác nhau. Công cụ chuẩn để đo lường và quản lý các nhu cầu tài trợ vốn là để sử dụng các kỳ hạn xen kẽ kết hợp với sự tính toán lợi nhuận tích lũy và thua lỗ tại các kỳ đáo hạn xác định. Chuỗi thời gian được phân phối từ qua đêm đến 14 ngày, 15 ngày đến 28 ngày, 29 ngày đến 3 tháng; trên 3 tháng và trên 5 tháng, và kéo dài hơn 5 tháng.

Các khoản đầu tư chứng khoán được cho là không có tính thanh khoản bởi vì không có thị trường thứ cấp, tuy nhiên cần phải được biểu thị ra trong chuỗi thời gian theo kỳ hạn còn lại. Một số tổ chức tín dụng có thể nắm giữ chứng khoán được xác định là 1 - 14 ngày, 15 - 28 ngày và 29 - 90 ngày.

Trong mỗi khoảng thời gian có thể có tính bất cân xứng tùy thuộc vào dòng tiền mặt. Tính bất cân xứng của thời gian lên tới 1 năm là thích hợp bởi vì chúng cho thấy những dấu hiệu để sớm tránh những vấn đề về thanh khoản. Tính bất cân xứng của các kỳ hạn ngắn 1 - 14 ngày và 15 - 28 ngày là vấn đề cần quan tâm. Tuy nhiên, các tổ chức tài chính cần phải giám sát sự bất cấn xứng của tất cả các khoảng thời gian, thiết lập các giới hạn thận trọng trong ngân hàng được ban quản lý thông qua. Độ bất cân xứng trong thời gian 1- 14 ngày và 15 - 28 ngày không được nhiều hơn 20% dòng tiền mặt trong những khoảng thời gian này (giới hạn thận trọng). Trong trường hợp này các ngân hàng phải đưa ra kế hoạch đề xuất để tài trợ cho phần còn thiếu và phục hồi lại các giới hạn thận trọng đáng lưu ý. Để các tổ chức có thể giám sát thanh khoản ngắn hạn trong thời gian từ 1 - 90 ngày, các ngân hàng cần phải ước lượng lịch sử thanh khoản ngắn hạn theo các kế hoạch kinh doanh.

Quy định ALM cũng mô tả các phương pháp để đo lường các khoản tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm và trong tài khoản thanh toán và các khoản tiền gửi này được đo lường từng phần theo tính dễ biến đổi và theo tính lõi. Các phần dễ biến đổi nằm trong khoảng 1 - 14 ngày, nhóm lõi thì từ 1 - 3 năm. Đối với tiền gửi kỳ hạn thì được thay đổi dựa trên kỳ hạn cho các khoản tiền gửi cá nhân. Còn đối với các khoản bán buôn thì cần phải chú ý đến kỳ đáo hạn.

1.3.1.2 Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB)

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ACB phải đối mặt với các rủi ro thanh khoản liên quan đến tin đồn và bất ổn kinh tế, điển hình ACB đã trải qua hai lần đối phó với sự rút tiền ồ ạt trong dân chúng: lần thứ nhất vào năm 2003 khi có tin đồn tổng giám đốc ACB bỏ trốn, lần thứ hai khi lãnh đạo của ACB bị bắt và khởi tố.

Sự kiện 1: Tình huống và hướng giải quyết của ACB

Đầu năm 2003, ngân hàng TMCP Á Châu vẫn đang kinh doanh hiệu quả.

Nhưng đến đầu tháng 10 năm 2003 có một sự kiện lớn xảy ra với ngân hàng này khi hàng nghìn khách hàng đến ACB rút tiền.

Nguyên nhân của sự kiện trên bắt đầu từ tin đồn Tổng giám đốc ACB bỏ trốn nên khách hàng có quan hệ giao dịch với ACB hoang mang ồ ạt đến các chi nhánh, phòng giao dịch của ACB để rút tiền. Số lượng rút tiền càng lúc càng nhiều.

Trước tình huống này, NHNN và ACB đã đưa ra các hướng giải quyết sau:

+ NHNN đã trực tiếp cam kết không để bất cứ khách hàng nào gửi tiền vào hệ thống ngân hàng mà phải bị mất mát hay hao hụt, đặc biệt khẳng định ACB là một ngân hàng tốt trong hệ thống ngân hàng.

và các cơ quan báo có trách nhiệm, các cơ quan báo chí đồng loạt có những tin, bài viết bác bỏ tin đồn trên.

+ NHNN cam kết hỗ trợ ACB thực hiện chi trả mọi nhu cầu rút tiền khi khách hàng yêu cầu.

+ Về phía ACB: Tổng giám đốc trực tiếp đứng ra giải thích tin đồn trên, khẳng định mình không bỏ trốn và đưa ra các số liệu về hoạt động của ACB trong thời gian quan để trấn an khách hàng. Bên cạnh đó, ACB luôn đảm bảo chi trả tất cả các khoản rút tiền từ khách hàng.

Qua hành động của NHNN và ACB, sau một thời gian rút tiền, khách hàng đã ổn định tâm lý và ngừng hành động trên. Đồng thời khách hàng bắt đầu đem tiền gửi trở lại ACB và tình hình hoạt động kinh doanh của ACB ổn định trở lại, thanh khoản được đảm bảo.

Sự kiện 2: Tình huống và hướng giải quyết của ACB

Đến năm 2012, người dân ồ ạt đến các chi nhánh, phòng giao dịch của ACB để rút tiền. ACB lại đối diện với một khủng hoảng rút tiền từ người dân.

Nguyên nhân do nhiều lãnh đạo cấp cao của ACB bị bắt để điều tra về một số sai phạm trong hoạt động kinh tế.

NHNN và ACB đã đưa ra các hướng giải quyết sau:

+ NHNN tích cực đồng hành cũng ACB và cam kết hỗ trợ ACB vượt qua khó khăn này nhằm giúp người dân an tâm hơn và có những hành động đúng đắn.

+ ACB đã họp Ban lãnh đạo ngân hàng để thống nhất những phương án đối phó, xử lý các tình huống khi phát sinh. ACB đã tung ra nhiều cách thức trấn an khách hàng, cam kết chi trả toàn bộ số tiền khách hàng đang gửi tại ACB nếu khách hàng có nhu cầu rút và ACB đưa ra chương trình ưu đãi đối cho khách hàng trong thời gian này. Điều này làm cho khách hàng thấy được ACB không gặp khó khăn về thanh khoản, có thể chi trả các khoản tiền của khách hàng giúp khách hàng yên tâm để gửi tiền ở ACB mà không hành động theo số đông.

Một phần của tài liệu Quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn hà nội (Trang 32 - 36)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(114 trang)