CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐNGV ĐẠI HỌC KHỐI NGÀNH NGHỆ THUẬT TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 114 3.1. Phương hướng và nguyên tắc đề xuất giải pháp phát triển ĐNGV đại học khối ngành nghệ thuật trong bối cảnh HNQT
3.1.2. Nguyên tắc đề xuất giải pháp
3.1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống
Đội ngũ giảng viên đại học ngành nghệ thuật là một bộ phận của đội ngũ giảng viên, vì vậy, để phát triển đội ngũ giảng viên ngành nghệ thuật cần phải đặt trong một hệ thống hoàn chỉnh, theo đó, sự phát triển của đội ngũ nói chung có ảnh hưởng đến đội ngũ giảng viên ngành nghệ thuật.
Bên cạnh đó, nguyên tắc hệ thống cho thấy, đội ngũ giảng viên ngành nghệ thuật không chỉ tập trung vào một khâu nhất định nào đó mà phải tập trung vào cả quá trình. Kinh nghiệm trong nghiên cứu của các học giả nước ngoài cho thấy, PTNNL cần chú ý đến cả hệ thống theo lôgíc gồm yếu tố môi trường bên ngoài và yếu tố bên trong của cơ sở đào tạo; kết hợp đánh giá cả đầu vào, quá trình thực hiện và cả đầu ra. Xét trong một bối cảnh mang tính chỉnh thể như vậy, các giả pháp đưa ra mới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam nói chung, ngành văn hóa – nghệ thuật nói riêng.
3.1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm tính thực tiễn
Thực tiễn là thước đo cao nhất của mọi nỗ lực PTNNL. Tính thực tiễn trong giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên đại học ngành nghệ thuật thể hiện ở các điểm sau: 1. Phù hợp với bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế; 2. Phù hợp với hệ thống cơ sở vật chất, tài liệu giảng dạy… của các cơ sở đào tạo đại học khối ngành nghệ thuật hiện nay; 3.
Phù hợp với điều kiện, trình độ thực tế của đội ngũ giảng viên hiện nay ở các cơ sở đào tạo đại học khối ngành nghệ thuật; 4. Phù hợp với khả năng, điều kiện và trình độ sinh viên khối ngành nghệ thuật hiện nay.
3.1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tính kế thừa
Trên thực tế, phát triển đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật đã có từ khi xuất hiện các ngành học này. Dù các hoạt động PTNNL này có thể chủ
119
yếu mang tính kinh nghiệm, chưa được đúc kết thành khoa học, nhưng đã có những thành tựu và gặp phải những hạn chế nhất định. Giải pháp hoàn thiện, phát triển đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật phải tính toán, kế thừa các kết quả, nỗ lực phát triển nguồn nhân lực đã có từ trước tới nay. Chỉ có làm như vậy, mới tránh việc áp đặt một cách máy móc, khiên cưỡng các giải pháp chung chung cho những trường hợp cụ thể.
3.1.2.4. Nguyên tắc phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực và kết hợp hài hòa giữa nội lực với ngoại lực
Nguyên tắc này như sau: cơ sở đào tạo và đội ngũ giảng viên của các trường khối ngành nghệ thuật đã được hình thành qua thời gian và hiện đang dần dần phát triển theo những định hướng nhất định. Phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu, tận dụng cơ hội và lường trước các khó khăn trong việc sử dụng, phát triển cơ sở đào tạo và đội ngũ giảng viên này là một công việc cần thiết. Phát huy tối đa nguồn lực hiện tại của các cơ sở đào tạo và đội ngũ giảng viên vừa đáp ứng được nguyên tắc kế thừa, vừa đảm bảo nguyên tắc hệ thống trong đề xuất giải pháp.
Tuy nhiên, những nguồn lực bên ngoài có những tác dụng nhất định đối với sự phát triển đội ngũ giảng viên đại học ngành nghệ thuật. Kinh nghiệm cho thấy, sự can thiệp của các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là các nguồn lực bên ngoài như học hỏi kinh nghiệm, trao đổi giảng viên, sinh viên, các đầu tư tài chính, cơ sở vật chất… từ bên ngoài có tác dụng tích cực đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
3.2.1.5. Nguyên tắc định hướng đặc thù, chuyên biệt
Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù. Như trong phân tích của toàn bộ luận án, tính đặc thù này thể hiện ở cả việc giảng dạy và học tập, cả ở cơ sở vật chất đến tài liệu giảng dạy… Chính vì lý do đó, các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật cần phải có cách nhìn linh hoạt, mang tính đặc thù đối với lĩnh vực đặc biệt này. Không có nguyên tắc định hướng đặc thù này, các giải pháp sẽ không phù hợp và không có hiệu quả.
3.2. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Kết quả điều tra của luận án cho thấy, hầu hết các giảng viên được hỏi đều đánh giá cao, đồng tình với các giải pháp đã được đưa ra trong bảng hỏi.
120
Xét một cách cụ thể, các giải pháp đều đạt mức nhất trí cao
0 20 40 60 80 100
Giải pháp
1
Giải pháp
2
Giải pháp
3
Giải pháp
4
Giải pháp
5
Giải pháp
6
Đồng ý Không ý kiến Không đồng ý
Biểu đồ 3.1. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trong đó, các giải pháp được lựa chọn theo thứ bậc như sau:
Bảng 3.1. Thứ bậc giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên
Giải pháp Đánh giá
X
Thứ bậc Đồng
ý
Không ý kiến
Không đồng ý 1.Hoàn thiện chuẩn năng lực giảng
viên đại học khối ngành nghệ thuật theo chuẩn quốc tế
196 15 9 2,85 2
2.Quy hoạch đội ngũ giảng viên đại học đáp ứng yêu cầu chung của khối ngành nghệ thuật
181 26 13 2,76 5
3.Tổ chức tuyển chọn, sử dụng, đánh giá theo đặc thù của nhà trường và yêu cầu của hội nhập quốc tế
175 21 24 2,68 6
4.Đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng năng lực thực hành, năng lực hội nhập quốc tế
180 34 6 2,79 4
5.Cung ứng nguồn lực để phát triển đội ngũ giảng viên đại học phù hợp với yêu cầu của khối ngành nghệ thuật
200 13 7 2,88 1
6.Hoàn thiện chính sách đãi ngộ phù hợp với đặc thù giảng viên khối ngành nghệ thuật
195 19 6 2,85 2
121
Có thể thấy, giải pháp “Cung ứng nguồn lực để phát triển đội ngũ giảng viên đại học phù hợp với yêu cầu của khối ngành nghệ thuật” được nhiều lựa chọn nhất (xếp vị trí số 1), sau đó là các giải pháp về hoàn thiện chuẩn năng lực và hoàn thiện chính sách đãi ngộ. Có thể thấy, đây là những vấn đề cấp thiết đặt ra đối với các trường đại học khối ngành nghệ thuật nói riêng, đối với Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ VH,TT&DL nói chung. Để thực hiện các giải pháp này, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của nhà trường mà còn có sự hỗ trợ, phối hợp của các Bộ, ban ngành liên quan, sự chỉ đạo từ Nhà nước.
3.2.1. Hoàn thiện chuẩn năng lực giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật theo chuẩn quốc tế
Mục tiêu: Xây dựng và hoàn thiện chuẩn năng lực giảng viên là căn cứ lâu dài để tuyển chọn, đánh giá và đào tạo đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật. Trước mắt là chuẩn chung dành cho giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật. Sau đó, từng trường, từng ngành nghệ thuật tự xây dựng chuẩn riêng cho giảng viên, dựa trên đặc thù của từng loại hình nghệ thuật.
Nội dung:
- Trên cơ sở chuẩn năng lực chung về giảng viên đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, nhà trường tự xây dựng chuẩn riêng theo đặc thù của khối ngành nghệ thuật và đặc thù của nhà trường. Hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ có ĐH Quốc gia HN đưa ra chuẩn cho giảng viên đạt chuẩn quốc tế. Theo đó, giảng viên giảng dạy chuyên môn phải có trình độ tiến sĩ, có thể giảng dạy và trao đổi chuyên môn bằng tiếng Anh hoặc ngoại ngữ khác theo yêu cầu của chương trình. Cũng từ đặc thù của khối ngành nghệ thuật, bên cạnh những tiêu chuẩn chung về đội ngũ giảng viên đã được quy định trong Điều lệ Trường Đại học, giảng viên khối ngành nghệ thuật còn cần có thêm những tiêu chuẩn riêng. Đề tài đã đề xuất Khun chuẩn chung về năng lực cho đội ngũ giảng viên khối ngành nghệ thuật trong bối cảnh hội nhập quốc tế để làm cơ sở tham khảo trong quá trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá giảng viên. Bên cạnh các tiêu chuẩn chung, đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật còn có tiêu chuẩn về năng lực sáng tác, biểu diễn nghệ thuật.
Đây là tiêu chuẩn không thể thiếu, thậm chí cũng phải được đặt ngang với tiêu chuẩn về năng lực kiến thức chuyên môn.
122
- Tiêu chuẩn về đạo đức cũng cần có cách đánh giá riêng. Người nghệ sĩ đôi khi có phong cách, nền nếp, trang phục,… hơi khác so với chuẩn mực chung của nhà giáo. Không nên vì thế mà đánh giá về mặt đạo đức của cá nhân. Tuy nhiên, với vai trò là người đi tiên phong trong mặt trận văn hóa – tư tưởng, người giảng viên – nghệ sĩ cần có tư tưởng, chính trị vững vàng, đạo đức lối sống lành mạnh, phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
- Nhà trường xây dựng chuẩn giảng viên cho từng chuyên ngành nghệ thuật.
Cùng thuộc nhóm ngành nghệ thuật song mỗi ngành lại có những đặc điểm riêng, dẫn đến những tiêu chí tuyển chọn giảng viên riêng. Ví dụ, đối với các ngành biểu diễn như thanh nhạc, diễn viên kịch, điện ảnh…còn đòi hỏi về hình thức, các ngành thực hành như múa, xiếc …đòi hỏi có sức khỏe tốt, các ngành lý luận đòi hỏi giảng viên phải chú trọng kiến thức chuyên môn, khả năng nghiên cứu khoa học, còn các ngành thực hành đòi hỏi giảng viên phải có kinh nghiệm biểu diễn, sáng tác…
Vì vậy cần xây dựng tiêu chuẩn giảng viên cụ thể cho từng ngành để từ đó việc tuyển chọn được công khai, minh bạch và đem lại hiệu quả về chất lượng. Ở các bộ môn nghệ thuật mang tính quốc tế như: Opera (ở Học viện Âm nhạc), múa bale (ở Trường CĐ múa VN), … tiêu chuẩn tuyển chọn nên ưu tiên những giảng viên đã được học tập ở nước ngoài, dần hướng đến tiêu chuẩn mang tính quốc tế.
- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tiêu chuẩn ngoại ngữ phải được đề cao, ưu tiên và thực hiện nghiêm túc trong khâu tuyển chọn. Hiện nay, khi tuyển chọn giảng viên để ký hợp đồng làm việc, nhà trường thường chỉ xét tiêu chuẩn này thông qua văn bằng, chứng chỉ. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cũng ít phải sử dụng đến ngoại ngữ. Vì vậy, ngoại ngữ chưa được chú trọng khi xét tuyển và đánh giá giảng viên. Để tăng cường khả năng ngoại ngữ của giảng viên, nhà trường cần tạo môi trường để giảng viên nhận thấy sự cần thiết phải trang bị ngoại ngữ, có điều kiện cọ sát, thực hành ngoại ngữ. Trong các ngoại ngữ, nhà trường có thể ưu tiên tiếng Anh nhưng cũng cần có các ngoại ngữ khác, có thể tính tiếng Anh theo tiêu chuẩn giao tiếp thông thường, còn giảng viên phải trang bị thêm 01 ngoại ngữ khác chuyên sâu phục vụ cho chuyên môn.
Điều kiện thực hiện:
- Bên cạnh các nghiên cứu, đánh giá đồng bộ về thực trạng, đặc thù của đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật hiện nay, có sự so sánh, đối chiếu với
123
các tiêu chuẩn của giảng viên các ngành khác, với tiêu chuẩn giảng viên nghệ thuật trên thế giới, nhà trường cần chủ động xây dựng được chuẩn riêng cho cơ sở đào tạo của mình theo từng cấp học từ đại học đến sau đại học.
- Từ tiêu chuẩn chung này, mỗi trường ĐH có các quy định cụ thể riêng theo từng chuyên ngành đào tạo, căn cứ vào thực tiễn đội ngũ giảng viên của nhà trường, nhu cầu và chiến lược phát triển của nhà trường. Ví dụ, với các chuyên ngành đào tạo đẳng cấp quốc tế, giảng viên phải được đào tạo ở nước ngoài, với các chuyên ngành nghệ thuật truyền thống, có thể xem xét tiêu chuẩn năng lực chuyên môn không cần học vị tiến sĩ nếu có các danh hiệu như nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, nghệ nhân…Với các ngành nghệ thuật truyền thống, tiêu chuẩn về tuổi.
- Cần tính toán lộ trình quy hoạch, tuyển chọn và đào tạo để đội ngũ giảng viên đạt chuẩn đề ra trong thời gian ngắn nhất. Với các giảng viên tuyển trong giai đoạn từ 2015, cần lựa chọn theo tiêu chuẩn trên. Ưu tiên các đối tượng giảng viên có trình độ chuyên môn cao, có ngoại ngữ, có khả năng hội nhập và giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, với các đối tượng này, tuổi tác thường cao. Trong khi đó, cần tính đến lựa chọn các giảng viên trẻ, tuy trình độ chuyên môn chưa cao, nhưng sắp xếp để đào tạo lớp kế cận.
- Đối với các giảng viên đã được tuyển nhưng chưa đáp ứng chuẩn đề ra, cần phân loại để có chiến lược đào tạo lâu dài. Với đối tượng từ 25- 45 tuổi, nhà trường sắp xếp cho đi học các lớp nâng cao trình độ chuyên môn. Với các giảng viên trẻ, ưu tiên đi đào tạo dài hạn tại nước ngoài để nâng cao cả trình độ ngoại ngữ. Với các đối tượng ngoài 45 nếu trình độ chuyên môn chưa đảm bảo chuẩn, cần sắp xếp lại vị trí việc làm, đảm bảo chất lượng đào tạo.
- Áp dụng chuẩn nghiêm túc, chặt chẽ trong quá trình tuyển chọn và đánh giá giảng viên. Có sự thử nghiệm đánh giá theo chuẩn mới để đảm bảo chuẩn đề ra phù hợp với thực tiễn và đặc thù của đội ngũ giảng viên.
3.2.2. Quy hoạch đội ngũ giảng viên đại học đáp ứng yêu cầu chung của khối ngành nghệ thuật
Mục tiêu:
- Định hướng được sự phát triển của đội ngũ giảng viên đại học khối ngành nghệ thuật phù hợp với đặc thù của ngành và bối cảnh HNQT. Vì đặc thù đào tạo khác biệt, đội ngũ này có số lượng, cơ cấu giảng viên/sinh viên, cơ cấu giảng viên
124
lý thuyết/ giảng viên thực hành, tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị, tỷ lệ giảng viên nam/nữ… khác so với chuẩn chung.
- Đảm bảo quy hoạch phù hợp với đặc thù giảng dạy khối ngành nghệ thuật.
Những ngành thực hành đòi hỏi tỉ lệ giảng viên/sinh viên thấp, tỉ lệ giảng viên trẻ cao. Những ngành lý luận lại đòi hỏi tỉ lệ giảng viên có học hàm, học vị cao….
- Đảm bảo quy hoạch phù hợp với khả năng hoạch toán thu chi của nhà trường. Một số ngành giảng viên nhiều, nhưng sinh viên lại ít hoặc ngược lại. Việc quy hoạch hợp lý giúp tập trung được nguồn lực cho phát triển đội ngũ.
Nội dung:
- Cần căn cứ chuẩn năng lực đề ra để rà soát, đánh giá đội ngũ giảng viên hàng năm. Với đội ngũ giảng viên hiện có chưa đạt chuẩn, phải có đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao để đạt chuẩn. Cần căn cứ tình hình thực tế đội ngũ giảng viên của nhà trường (độ tuổi, vị trí công tác, kế hoạch công tác giảng dạy…) để lên kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Ví dụ: ưu tiên cán bộ chủ chốt, lãnh đạo khoa đi học trước, ưu tiên cử đi học theo độ tuổi, thâm niên…Đảm bảo vừa thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy của nhà trường, vừa nâng cao được trình độ cho đội ngũ giảng viên, đảm bảo tính kế thừa, tiếp nối trong đội ngũ giảng viên.
- Cải cách hành chính nhằm xây dựng một đội ngũ giảng viên tinh gọn, có chất lượng. Hiện nay các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật đang xây dựng đề án tinh giản biên chế theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về tinh giản biên chế và công tác tổ chức cán bộ. của chính phủ, theo đó giảm 10%
số biên chế hiện có (năm 2015) đến thời điểm năm 2021.
- Có hình thức tinh giản biên chế, thanh loại những đối tượng không đạt chuẩn, không có triển vọng đào tạo, bồi dưỡng. Hiện nay, nhiều giảng viên có tâm lý ỉ lại, chậm tiến, lười học, lười cập nhật tri thức. Với đối tượng này, nhà trường cần có kế hoạch cụ thể, yêu cầu đi học nâng cao trình độ, nếu không chấp hành, hoặc tiến độ chậm, phải có hình thức phạt từ cảnh cáo, kỷ luật đến buộc thôi đứng lớp. Với một số trường hợp lớn tuổi, gần nghỉ hưu, có thể không bắt buộc đi học, tạo điều kiện bố trí, sắp xếp công việc khác phù hợp.
- Liên kết đào tạo giữa các trường cùng ngành đào tạo để tăng cường lực lượng đào tạo, chất lượng đào tạo cho các cơ sở đào tạo khối ngành nghệ thuật. Do lực lượng giảng viên của ngành nghệ thuật còn ít, các trường cần phối hợp để tạo
125
lập đội ngũ giảng viên chung cho toàn ngành, cùng phối hợp giảng dạy. Tránh trường hợp do thiếu giảng viên, một giảng viên đảm nhiệm quá nhiều môn học hoặc giảng viên không đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Hiện nay, các trường khối ngành nghệ thuật ở miền Trung, vùng Tây Bắc, Đông Bắc… còn rất thiếu giảng viên có trình độ cao. Nếu xét theo chuẩn chung về đào tạo và mở mã ngành, các cơ sở trên đều không đảm bảo điều kiện. Mặc dù các trường đã tích cực cử giảng viên tham gia các khóa đào tạo trình độ chuyên môn thạc sĩ, tiến sĩ.
Tuy nhiên, tình trạng này không thể khắc phục trong 1, 2 năm, đòi hỏi các nhà trường phải liên kết, hợp tác với nhau. Các cơ sở đào tạo nhỏ, trực thuộc địa phương có thể liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo lớn như Trường ĐH Mỹ thuật Việt Nam, Trường ĐH Mỹ thuật TP HCM, Học viện Âm nhạc quốc gia VN, Nhạc viện TP HCM để mời các giảng viên có trình độ tham gia giảng dạy. Với một số môn học, lượng sinh viên ít, thì cách mời giảng viên thỉnh giảng cũng góp phần giảm bớt chi phí đào tạo cho nhà trường.
- Các trường cần rà soát đội ngũ giảng viên, lựa chọn các giảng viên chủ chốt, có năng lực đầu ngành để cử đi đào tạo trình độ tiến sĩ. Việc cử đi đào tạo nâng cao trình độ phải được các giảng viên coi như nhiệm vụ bắt buộc. Ngược lại, nhà trường cũng cần có chính sách hỗ trợ cho giảng viên về kinh phí học tập, kinh phí đi lại, mua tài liệu, rút bớt giờ giảng dạy, giờ quản lý cho các giảng viên.
- Điều chỉnh cơ cấu giảng viên hợp lý theo đặc thù của ngành: tỉ lệ giảng viên lý thuyết/thực hành, tỉ lệ giảng viên có học hàm học vị, tỉ lệ tuổi tác... Đặc thù của khối ngành nghệ thuật đòi hỏi thực hành nhiều nên không thể áp dụng máy móc cách xác định tỉ lệ, cơ cấu như các ngành khác. Ở các trường khối ngành nghệ thuật, các tiết học về thực hành chiếm thời lượng lớn, vì vậy tỉ lệ giảng viên giảng dạy, hướng dẫn thực hành phải cao hơn giảng viên chỉ giảng dạy lý thuyết, tỷ lệ này cũng khác so với các trường ngành khoa học xã hội, vốn chú trọng nhiều đến lý thuyết.
Trên thực tế ở các trường khối ngành nghệ thuật, ngoài các giảng viên chuyên khoa Lý luận, các giảng viên khác đều vừa tham gia giảng dạy lý thuyết và thực hành. Nhiều môn, giáo trình chưa truyền đạt hết lý thuyết, sinh viên chủ yếu lĩnh hội kiến thức thông qua truyền đạt trực tiếp của giảng viên trong thực hành. Vì