CHƯƠNG 3. ẨN DỤ Ý NIỆM THIÊN NHIÊN LÀ CON NGƯỜI TRONG THƠ THIẾU NHI CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
3.2. Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN CƠ THỂ THIÊN NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ
3.2. Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN CƠ THỂ THIÊN NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
Ở ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN CƠ THỂ THIÊN NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI có các mô hình ẩn dụ sau:
- BỘ PHẬN CỎ CÂY LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI - BỘ PHẬN LOÀI VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
- BỘ PHẬN HIỆN TƢỢNG THIÊN NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
- BỘ PHẬN CƠ THỂ VẬT THỂ TỰ NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
3.2.1. Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN CỎ CÂY LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN CỎ CÂY LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI là một ẩn dụ mang tính phố quát trong tư duy nhân loại nói chung, trong tư duy người Việt nói riêng. Trong bức tranh ngôn ngữ chung của người Việt, việc tri nhận về con người thông qua thực vật, cỏ cây diễn ra rất phổ biến. Điều này vốn có cội nguồn sâu xa từ nền văn minh nông nghiệp của người Việt. Khí hậu nước ta nằm trọn trong miên
nhiệt đới nóng, ẩm, mƣa nhiều và có hai m a rõ rệt nên rất thuận lợi cho thực vật sinh trưởng, phát triển đa dạng. Do vậy, từ khởi thuỷ, người Việt đã sinh sông chủ yếu dựa vào nghề trồng trọt, hái lƣợm, biết tận dụng các sản vật của tự nhiên nhƣ quả, mầm, lá, hoa, rễ để ăn, vỏ, lá làm đồ mặc, lá, cây con, rễ phụ, thân để đan tết thành võng, để xây nhà, làm thuốc... Trải qua hàng trăm năm sinh sống bằng nghề nông, người Việt tích luỹ đƣợc nhiều kinh nghiệm về m a màng, cây cối, hiểu biết sâu sắc về các loại cây cũng như đặc tính sinh trưởng, lợi ích... của chúng. Trong tâm thức của người Việt, cây cỏ không chỉ là cội nguồn nuôi dƣỡng sự sông mà còn là bầu bạn gắn bó, là một sinh thể đặc biệt cũng có linh hồn, có cảm xúc, cảm giác. Vậy nên người dân Việt bao đời nay ƣa chuộng lốì sống hoà mình vào thiên nhiên, giàu tình yêu cỏ cây hoa lá, thích cảm nhận cuộc sống của mình trong sự sống tuần hoàn của cỏ cây. Bên cạnh đó, vối sự ảnh hưởng của quan niệm “vạn vật đồng nhất thể”, “vạn vật nhất linh” của tư duy phương Đông, ỏ nhiều nơi, cây cối đã trở thành biểu tượng tâm linh, là linh vật thờ cúng của con người, chẳng hạn như người Chàm có tục thờ dừa, thờ cau, người Kinh thờ cây đa, cây gạo ở các đình ch a, miếu mạo, người Dao thờ cây đa, cây sấu...
Dân gian từ xưa đến nay đã suy nghĩ về con người dựa trên các ý niệm về cây cỏ trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ: “cây cao bóng cả, hoa tàn nhị rữa, liễu yếu đào tơ, mặt hoa da phấn, chị em gái nhƣ trái cau non...”
Trong thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều hình ảnh thế giới cây cỏ, các bộ phận của cây cối cũng đƣợc sử dụng để chiếu xạ lên các bộ phận của con người; màu sắc, kích cỡ, hình dáng của cây cũng được d ng để chiếu xạ lên hình dáng, trạng thái của con người. Ở phần này sẽ nghiên cứu về ẩn dụ bộ phận của cỏ cây là bộ phận cơ thể người.
Trong những vần thơ thiếu nhi ấy chúng ta bắt gặp những câu thơ:
Bắp ngôn non răng sún Óng vàng một chòm râu
(Bên sông kinh Thầy)
“Răng sún”là răng ở trẻ em,chỉ phần răng bị gãy, chƣa kịp mọc ra, chừa trống một chỗ. Trong bài thơ, “răng sún” đƣợc chiếu xạ lên trái “bắp ngô” ý muốn chỉ bắp còn rất non.
Hay “chòm râu” trong câu “Óng vàng một chòm râu”, dựa trên sự tương đồng về hình dáng râu của con người mà Trần Đăng Khoa đã tái hiện hình ảnh trái bắp non với ch m râu bắp óng vàng.
3.2.2 Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN LOÀI VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
Trong tự nhiên, xét về bản chất sinh học, con người cũng là một loài động vật.
Sự sống của loài người song song tồn tại bên cạnh đời sống của các loài động vật khác.
Giữa con người và động vật có nhiều điểm tương đồng nên mỗi con vật với các đăc điểm sinh học, đặc tính về hình dạng, kích cỡ, màu sắc, hành vi, sự sinh trưởng, tập quán, nguồn gốc, môi trường sống... luôn gợi lên sự liên tưởng đến các đặc điểm sinh lý, hành vi, đặc điểm tính cách, lối sông... của con người. Trong văn hoá Việt, từ trước đến nay, trong đời sông thường ngày nói chung, trong văn chương nói riêng, việc chiếu ứng động vật lên các đặc điểm của con người khá phổ biến. Thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ Việt Nam có nhiều câu trong đó d ng các thuộc tính của động vật chiếu xạ lên các thuộc tính của con người như: to như voi, khoẻ như trâu, chậm như sên, buồn nhƣ kiến cắn, mặt đỏ nhƣ gà chọi, trứng khôn hơn vịt, đầu voi đuôi chuột, cốc mò cò xơi, nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà,... Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN LOÀI VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI là một ẩn dụ nguyên cấp (primary metaphor). Khi đi vào văn chương, các nhà văn, nhà thơ sẽ sử dụng những cơ chế khác nhau để mở rộng hoặc chi tiết hoá các cấu trúc ánh xạ dựa trên việc bổ sung thêm các thuộc tính vào ý niệm nguồn hoặc đi sâu vào làm nổi bật một phương diện nào đó của ý niệm nguồn. Trong thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, ông đã vận dụng cơ chế chi tiết hoá làm nổi bật thuộc tính bộ phận của ý niệm LOÀI VẬT để chiếu xạ lên ý niệm đích “CON NGƯỜI” nhằm tái hiện một cách sâu sắc đời sống của con người.
Trần Đăng Khoa tri nhận mỗi cá thể động vật như một con người bộ phận con vật là bộ phận của con người:
Đầu tiên mày rối rít Cái đuôi mừng ngoáy tít.
Rồi mày lắc cái đầu Khịt khịt mũi, rung râu Rồi mày rún chân sau Chân trước chồm, mày bắt
(Sao không về Vàng ơi!)
Hình ảnh sinh động nhƣ một đoạn phim. Ở đây có sự tinh vi trong bút pháp của nhà thơ nhỏ tuổi. Tả tình cảm con người, thường tả bằng nét mặt nụ cười, nhưng với chó, cái mặt ít gợi cảm tình.Em Khoa đã tinh ý nhận ra cái đuôi là chỗ biểu hiện tình cảm cao nhất ở loài chó. Em tả đuôi trước rồi mới ngược lên tả đầu, tả tứ chi. Và ở mỗi bộ phận cơ thể ấy em chỉ nói tới năng lực biểu hiện sự mừng rỡ: cái đuôi thì ngoáy tít,
cái đầu thì lắc lắc, mũi khịt khịt, chân sau rún, chân trước chồm. Chúng ta đọc thấy sinh động vì đoạn thơ chứa nhiều động tác, Khoa đã quan sát kỹ không bỏ sót một động tác nào.
Nhƣng có một chi tiết Khoa đã không tả đúng, em đã bịa ra, khi em nói con chó nó bắt tay em:
Bắt tay tao rất chặt Thế là mày tất bật Đƣa vội tao vào nhà
Thật ra thì em nắm chân trước của nó. Và nó theo em vào nhà. Nếu quan sát bằng mắt thì chỉ thấy thế thôi. Nhưng do cái tình của con chó mà tác giả tưởng tượng ra, nhân cách hóa con chó từ lúc nào không biết, nên mới tả nó bắt tay, mà bắt tay rất chặt (chó đâu có bàn tay), lại còn đƣa chủ vào nhà nhƣ ta đón khách. Đây cũng là một đặc điểm của tư duy con trẻ: quan sát và tưởng tượng lẫn vào nhau. Người đọc không mấy ai thấy các chi tiết ấy là vô lý, người ta chấp nhận dễ dàng vì nó đúng với tâm trạng. Đây là một thí dụ về cái phi lý đƣợc chấp nhận và hơn nữa cần có trong thơ.
Cái tay đại diện cho con người để bạn b với con chó vừa là ngang cấp, vắng con chó, cái tay nó buồn. Tâm lý rất trẻ thơ mà lại hóa ra tinh tế. Em Khoa đã tả đúng nỗi lòng chú bé nên có đƣợc sự tinh tế ấy không phải do dụng ý của bút pháp.
3.2.3. Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN HIỆN TƢỢNG TỰ NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
Đi vào vũ trụ văn chương của cha ông xưa, người đọc như được sống giữa thế giới tạo vật thiên nhiên non nước hữu tình vừa tịch lặng vừa hoành tráng. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại hình nhƣ không thể vắng bóng thiên nhiên.
Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư tưởng triết học phương Đông của các nghệ sĩ Nho học này.
Riêng thi ca, thơ tức cảnh cũng nhƣ tranh sơn thủy chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống văn nghệ thời phong kiến. Hiện tƣợng này có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời trung đại. Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình.
Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình, xã hội của cƣ dân của nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước. Trong thơ Trần Đăng Khoa cũng vậy, hiện tượng thiên nhiên cũng đƣợc tác giả quan tâm, dành một phần của tuổi thơ để quan sát và tri nhận nó.
Nhƣ trong bài thơ Nửa đêm tỉnh giấc, cậu bé Khoa đã có những trải nghiệm thật thú vị:
Nửa đêm em tỉnh giấc Bước ra hè em nghe
Nghe tiếng sương đọng mật Đọng mật trên cành tre
Nghe ri rỉ tiếng sâu Nó đang thở cuối tường Nghe rì rầm rặng duối Há miệng đòi uống sương
Nghe hàng chuối vườn em Gió giở mình trăn trở Chuột chạy giàn bí đỏ Loáng vỡ ánh trăng vàng
Giữa khuya (bài: "Nửa đêm tỉnh giấc") em bé trở dậy, kể cũng hơi lạ, nhƣng không hề diễn ra sự "trầm tƣ", "suy tƣ", chỉ duy nhất xảy ra sự quan sát thế giới trong đêm. Thế giới trong đêm của cậu bé Khoa cũng thật phong phú, có “tiếng sương đọng mật trên cành tre” , đâu đó là âm thanh “ri rỉ tiếng sâu” “rì rầm rặng duối há miệng đòi uống sương” và đặc biệ là hiện tượng tự nhiên “gió giở mình trăn trở”. “Mình” là từ ngữ chỉ cơ thể con người, nay được Trần Đăng Khoa gán ghép lên hiện tượng gió để thổi hồn vào dòng thơ, thể hiện sự suy tƣ của cơn gió vào ban đêm. Thật khéo léo và tinh tế từ cậu bé Khoa thức dậy giữa đêm.
3.2.4. Ẩn dụ ý niệm BỘ PHẬN VẬT THỂ TỰ NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI
Hình ảnh trăng đƣợc Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều trong thơ mình, với ông, trăng đã là một biểu tượng gắn liền với tuổi thơ ấu của mình, đó một người bạn thân thiếtc ng nhà thơ vui chơi, chia sẻ bao điều suy nghĩ. Những đêm trăng mọc đem ánh sáng soi tỏa khắp nơi, cậu bé Khoa đã tận hưởng bầu không khí mát mẻ, dưới ánh trăng sáng chơi những trò chơi mà mọi trẻ em ngày ấy đều thích: xỉa cả m , m o đuổi chuột.
Trong thế giới tuổi thơ của tác giả, những đêm ngắm trăng là những kỷ niệm không thể nào quên, đặc biệt là những đêm trăng rằm. Trần Đăng Khoa đã cho ta thấy tình cảm yêu quý của nhà thơ với thiên nhiên, đặc biệt là trăng. Dường như trong tâm trí trẻ thơ của Trần Đăng Khoa trăng là của riêng mình nhà thơ, là người bạn gần gũi, gắn bó, nhà thơ sợ trăng trôi đi mất nên phải trông trăng. Trong đêm
trông trăng ấy, không chỉ một mình nhà thơ, mà còn có cả quả thị thơm lừng, nải chuối thơm ngát và đĩa xôi vàng thơm ngon. Trong liên tưởng thú vị, ngộ nghĩnh rất hợp với trẻ con của Trần Đăng Khoa khi ấy, trăng nhìn thấy đĩa xôi vàng thì vô c ng th m thuồng nên nhoẻn miệng cười khiến cho trăng cũng nở vàng như xôi.
Ánh sáng vàng của trăng lan tỏa khắp nơi, khiến cho mái nhà trong đêm sương ướt ảnh vàng. Đặc biệt, với cậu bé Khoa, trăng cũng nhƣ mình, cũng đáng yêu và nhí nhảnh: nhà thơ vui vẻ chạy nhảy dưới sân, múa hát quanh bóng trăng làm cho trăng thích thủ đến mức em nhảy trăng cũng nhảy. Quả là một liên tưởng độc đáo và đáng yêu. Những liên tưởng của Trần Đăng Khoa không chỉ có ở những đêm trăng tròn, mà vào những đêm trăng khuyết nhà thơ còn có những liên tưởng rất thú vị về trăng.
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn Chú ơi, trăng già thế Sao bà bảo trăng non?
(Trăng đầu tháng)
Nhà thơ đã bộc lộ cái nhìn hết sức ngộ nghĩnh mà người lớn không thể nào có được. Trăng đầu tháng là trăng khuyết và nếu từ dưới đất nhìn lên thì thấy một vài vệt đen nhô lên làm cho cậu bé Khoa liên tưởng đến lợi của con người và sau đó bày tỏ những thắc mắc rất ngây ngô nhƣng có lý.
Đặc biệt là những bộ phận của người “răng, lợi”nay lại được cậu bé Trần Đăng Khoa gán ghép lên “Trăng”. Người lớn gọi trăng đầu tháng là trăng non nhƣng trong con mắt trẻ thơ thì trăng lúc ấy giống nhƣ một cụ già rụng hết răng, chỉ còn trơ lợi mà thôi. Câu thơ thật hồn nhiên và nói rất đúng tâm lý của trẻ thơ. Trong cuộc sống trẻ em có vô số thắc mắc và muốn được người lớn giải đáp.
Hay cũng nói về “trăng”, trong các câu thơ:
Ai treo ông cao thế Ông nhìn đàn em bé Muốn khoe có mặt tròn
(Trông trăng)
“Ông trăng”- nhân vật trung tâm của bữa tiệc Rằm trung thu hiện ra chẳng có vẻ gì là nghiêm nghị, đạo mạo như một quyền năng, tạo ra lịch pháp như với người lớn mà trăng rất hồn nhiên trong cách thắc mắc (Ai treo ông cao thế), để rồi tác giả đƣa ông trăng xuống ngang tầm với lũ trẻ: “Ông nhìn đàn em bé/Muốn khoe có mặt tròn”.
Dưới sân em trông trăng Có quả thị thơm lừng
Nải chuối tiêu thơm mát Ông trăng nhìn thấy xôi Là ông nhoẻn miệng cười Áng chừng ông thích lắm Trăng nở vàng nhƣ xôi
M a thu là m a của thơm thảo vườn nhà. Những trái thị, nải chuối, trái hồng, trái na và xôi dẻo thơm… làm bé vui thích náo nức. Nhƣng điều đặc biệt ở chỗ, nhà thơ đã đặt điểm nhìn vào đôi mắt bé, để bé cảm, bé tả về trăng bằng tƣ duy trẻ thơ. Có lẽ chỉ có bé mới biết “áng chừng” ông trăng cũng “nhìn thấy xôi” nên “ông nhoẻn miệng cười”. Có một đĩa xôi trên mâm cỗ m a thu, một đĩa xôi của ánh sáng trên bầu trời. Trăng dưới này và trăng trên kia tuy hai mà một.