CHƯƠNG 3. ẨN DỤ Ý NIỆM THIÊN NHIÊN LÀ CON NGƯỜI TRONG THƠ THIẾU NHI CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
3.3 Ẩn dụ ý niệm HOẠT ĐỘNG TRẠNG THÁI, TÍNH CHẤT THIÊN NHIÊN LÀ HOẠT ĐỘNG TRẠNG THÁI, TÍNH CHẤT CỦA CON NGƯỜI
3.3.1 Ẩn dụ ý niệm HOẠT ĐỘNG TRẠNG THÁI, TÍNH CHẤT CỦA LOÀI VẬT LÀ HOẠT ĐỘNG TRẠNG THÁI, TÍNH CHẤT CỦA CON NGƯỜI
Nét độc đáo làm lên vẻ đặc sắc trong thơ Khoa, sự liên tưởng mới mẻ ngộ nghĩnh trẻ thơ, ở đây Trần Đăng Khoa đã kết hợp sử dụng từ ngữ, nghệ thuật hết sức tự nhiên. Thế giới thiên nhiên trở lên thật gần gũi với cuộc sống con người. Đám Ma Bác Giun là một thi phẩm nổi bật cho phong cách thơ của Trần Đăng Khoa. Bài thơ đƣợc trích trong tập Góc Sân Và Khoảng Trời nổi tiếng. Ông đƣợc biết đến với một kho tàng thơ vô c ng ấn tƣợng dành cho thiếu nhi. Bài thơ mang trên mình những ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời.
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai Đám ma đƣa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà Kiến Đen uống rƣợu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần…
(Đám ma bác Giun)
Hai câu đầu tưởng như tường thuật sự việc một cách khách quan nhưng kì thực gợi nhiều trăn trở từ nghịch lí đầy màu sắc thế sự: Một con người lao động chăm chỉ, vất vả là thế, theo lôgic của trẻ thơ, lẽ ra phải có một cuộc đời hạnh phúc, thế mà phải chết trong tội nghiệp, cô đơn. Một câu chuyện gợi nhiều sự cảm thông. Từ câu chuyện đáng thương của bác Giun, Trần Đăng Khoa tiếp tục triển khai bài thơ trên câu chuyện cảm động của họ hàng nhà Kiến. Bao nhiêu loài Kiến là bấy nhiêu cách thể hiện nghĩa tình. Họ hàng nhà Kiến cư xử với bác Giun như là con người cư xử với con người:
“Họ hàng nhà Kiến kéo ra…
Qua những vườn chuối, vườn khoai vườn cà”
Nhƣ vậy, bác Giun từ hình ảnh thực tế là một con giun đất đã thành một bậc bách niên giai lão trong làng, được cả làng trọng vọng, lúc mất được cả làng thương tiếc tiễn đưa. Đám ma càng dài thì nghĩa tình của con người càng thêm phần sâu nặng.
Dễ nhận thấy, đám ma bác Giun mang bóng dáng của lối sống nghĩa tình giữa con người với con người ở nông thôn: Chuyện “nghĩa tử là nghĩa tận” – một suy nghĩ truyền thống, tốt đẹp không chỉ của người nhà quê mà của cả dân tộc Việt. Không còn hình ảnh của một hiện tƣợng sinh học thuần túy trong con mắt trẻ thơ mà là chiêm nghiệm của một người trưởng thành trong suy nghĩ thật sự.
Càng về phần cuối bài thơ, sắc màu thế sự càng trở nên đậm nét hơn:“Kiến Đen uống rƣợu la đà/ Bao nhiêu Kiến Gió bay ra chia phần”.Nếu hai cảnh đầu của bài thơ thể hiện trái tim đồng cảm thì cảnh thứ ba lại gợi nhiều day dứt, cho thấy cái nhìn của Trần Đăng Khoa về cuộc sống đâu chỉ có màu hồng? Bóng dáng của những hủ tục lạc hậu, của nạn ch chén linh đình ở nông thôn mỗi khi có giỗ chạp, ma chay đổ bóng
vào hình tƣợng đồng thoại. Đâu phải đứa trẻ nào ở nông thôn cũng có cái nhìn phản tỉnh về mặt trái của lối sống cộng đồng ở nông thôn sâu sắc đến thế?
Qua bài thơ Đám Ma Bác Giun chúng ta đã thấy đƣợc một hiện thực đầy ngang trái của cuộc sống. Đôi lúc cuộc đời không màu hồng nhƣ ta nghĩ mà còn có những hủ tục xưa cũ ảnh hưởng đến lối sống của con người. Bài viết đã giúp ta thêm yêu ngòi bút tài hoa và sắc sảo của Trần Đăng Khoa.
Góc sân và khoảng trời là tập thơ của tuổi thơ. Đậm đặc chất đồng quê là đặc trƣng của thơ Trần Đăng Khoa:
“Nửa đêm nghe ếch học bài
Lƣa thƣa vài hạt mƣa ngoài hàng cây Nghe trời trở gió heo mây
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau”
Nghe tiếng ếch kêu mà liên tưởng đến chuyện học bài chắc chắn đó là dấu ấn của hồn thơ trẻ thơ đồng quê. Bắt đƣợc chiếc cầu nối giữa tiếng ê a trẻ em học bài với tiếng ếch kêu, không đơn giản chỉ là sự quan sát bằng tai, bằng mắt, đây rõ ràng là sự quan sát bằng cả hồn người.
Trong thơ Khoa ta thấy có sự kế thừa nền văn hoá dân gian và sự sáng tạo độc đáo trong ca dao, hình ảnh con cò rất quen thuộc:
"Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa sổ bay ra cánh đồng".
Nhƣng có lẽ chỉ có trong thơ Khoa mới có " cánh cò chớp trắng trên sông Kinh thầy", hay "cánh cò kiêng nắng qua sông".
Trong thơ Trần Đăng Khoa, hiện lên hình ảnh con trâu đƣợc đặc tả về ngoại hình: “Cái sừng nó vênh vênh/ Nó cao lớn lênh khênh/ Chân đi nhƣ đập đất”, vẫn gắn bó với ruộng đồng có “bờ mương xanh mướt cỏ”, uống “nước mương trong”, ăn cỏ gà, cỏ mật. Điều thú vị là việc cày ruộng của chú trâu trở nên nhẹ nhàng hơn nhờ có sự hỗ trợ từ những chiếc máy bơm, những chiếc máy cày - tín hiệu của đời sống cơ khí hóa. Vì thế, con trâu đã trút bỏ được sự nhọc nhằn, nặng nề thường gặp trong văn học dân gian và trở nên lạc quan, hóm hỉnh, tươi vui như chính thế giới trẻ thơ đầy sôi động:
Trâu cứ chén cho no Ngày mai cày cho khoẻ Đừng lo đồng nứt nẻ Ta có máy bơm rồi
Khó nhọc mấy mùa thôi Sau thì trâu đƣợc nghỉ Máy cày rồi có nhé Trâu chỉ còn vui chơi Hếch cái mũi, trâu cười Nhe cả hàm răng sún...
(Con trâu đen lông mƣợt)