Các phương pháp chẩn đoán u tụy

Một phần của tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật ung thư đầu tụy tại bệnh viện việt đức (Trang 23 - 27)

Các triệu chứng lâm sàng gợi ý để bắt đầu các thăm dò chẩn đoán UT tụy là đau bụng trên rốn, ăn kém, sút cân, vàng da, đặc biệt là sờ thấy khối u trên rốn qua thăm khám lâm sàng.

Ngày nay có rất nhiều biện pháp giúp chẩn đoán UT đầu tụy, tuy nhiên việc chẩn đoán sớm vẫn còn khó khăn. Hầu hết bệnh nhân đến viện ở giai đoạn muộn, tỉ lệ cắt bỏ được u thấp chỉ 10-20% [11], dẫn đến thời gian sống thêm sau mổ ngắn. Vì vậy cần phải chẩn đoán sớm và chính xác nhằm cải thiện kết quả điều trị. Việc lựa chọn phương pháp nào là thích hợp vừa mang lại hiệu quả về mặt chẩn đoán, vừa mang lại lợi ích kinh tế. Các biện pháp như siêu âm, siêu âm nội soi, chụp CLVT, MRI, chụp mạch, xét nghiệm tế bào học được coi là các biện pháp hữu ích.

- Siêu âm: Cho thấy vị trí khối u, bờ khối u, kích thước u, tình trạng đường mật, ống tụy... Tuy nhiên nó phụ thuộc vào trình độ và kinh nghiệm của bác sỹ [1],[2]. Độ nhạy của siêu âm là khoảng 76 - 90% [6],[27] và nó là biện pháp thường quy và mang tính định hướng.

- Siêu âm nội soi:

Là phương tiện chẩn đoán hữu hiệu cho phép phát hiện những khối u nhỏ, sự xâm lấn mạch máu, tình trạng hạch và có thể cho phép sinh thiết. Siêu âm có độ phân giải cao có thể đánh giá được tụy và cơ quan lân cận. Đây là phương pháp chẩn đoán u vùng đầu tụy, và đánh giá mức độ xâm lấn với độ chính xác cao nhất [28].

Siêu âm nội soi là phương tiện chẩn đoán hình ảnh xâm hại tối thiểu.

Siêu âm nội soi với hình ảnh có độ phân giải cao có thể đánh giá được tụy và các cơ quan lân cận. Theo Rosch và cộng sự, thì nó là phương tiện chẩn đoán và đánh giá mức độ xâm lấn u vùng đầu tụy chính xác nhất (95%) so với chụp động mạch (85%), CLVT (75%), siêu âm (55%) [29]. Ngoài ra còn góp phần làm giảm các chỉ định mở bụng thăm dò không cần thiết. Hiện nay siêu âm nội soi còn chưa được sử dụng rộng rãi bởi giá thành cao, đòi hỏi phải có chuyên gia giàu kinh nghiệm, kết quả phụ thuộc rất nhiều vào người làm thủ thuật.

- Chụp cắt lớp vi tính: Ngày càng được sử dụng nhiều vì có độ chính xác lớn hơn siêu âm. Theo Ellen M. Ward thì tỷ lệ chẩn đoán chính xác 95%

các trường hợp [30]. Bên cạnh chẩn đoán u tụy chụp CLVT còn giúp tiên lượng khả năng cắt bỏ khối u qua những dấu hiệu như di căn gan, xâm lấn các tạng hay cấu trúc xung quanh tụy, như hạch mạc treo tràng trên, hay mạch lách kèm theo to, dấu hiệu di căn vào màng bụng [31]. Ngoài ra chụp CLVT có bơm thuốc cản quang có giá trị tốt trong chẩn đoán u vùng đầu tụy với các máy có độ xoắn ốc cao.

Hình 1.3. Hình ảnh CTscan u đầu tụy

(Nguồn: Pistorius, G. A.; Schilling, M. K.: Pankreaskarzinom – Diagnostik, DMW - Deutsche Medizinische Wochenschrift; 44, 2002)

- Chụp cộng hưởng từ: Là phương pháp đánh giá rất tốt về mặt hình thái của đường mật, ống tụy, cấu trúc nhu mô, tình trạng xâm lấn mạch máu.

Hơn nữa nó còn cho phép thăm dò khối u nhỏ [32].

- Chụp mật qua da: với các trường hợp tắc mật thì đây là biện pháp có độ chính xác cao. Không những thế nó còn cho biết khả năng cắt u, vì chỗ tắc mật càng xa ngã ba đường mật thì cắt u dễ hơn [33].

- Chụp mạch máu: Với u vùng đầu tụy thì đây là biện pháp quan trọng để đánh giá khối di căn mạch với hình ảnh u kẹp vào mạch mạc treo tràng trên là dấu hiệu không cắt được khối u [29],[34].

- Chẩn đoán tế bào học: Đây là tiêu chuẩn quan trọng để chẩn đoán, là cơ sở để đưa ra quyết định điều trị dù đó là điều trị tạm thời. Bệnh phẩm có thể lấy từ chọc dò qua nội soi, hút dịch ở tá tràng hoặc tụy, theo các tác giả như Fladere, Evander thì tỷ lệ dương tính tương đối cao [35],[36].

- Các xét nghiệm giúp đánh giá tình trạng tắc mật: Bilirubin tăng cao trong máu là do sự chèn ép của khối u vào đường mật, hoặc ở ống tụy mật chung, bóng Vater. Xét ngiệm này không đặc hiệu trong u mà nó giúp định hướng chẩn đoán. Men phosphataza kiềm trong máu cũng tăng, nhiều khi còn tăng sớm hơn bilirubin nhưng ở giai đoạn cuối thì nó giảm. Xét nghiệm trong phân thấy máu xuất hiện khoảng 90% các trường hợp.

- Chất chỉ điểm khối u (tumor markers):

CA 19-9 đây là kháng nguyên liên kết ung thư được Koprowski phát hiện năm 1979, là chất do khối u tiết ra giải phóng vào máu. Nó là kháng nguyên carbonhydrat. Trong chẩn đoán ung thư nó có độ đặc hiệu cao. Thời gian bán hủy của CA 19-9 là 8 ngày[28], [37].

Trong chẩn đoán UT tụy CA 19-9 là chất chỉ điểm có độ nhậy và độ đặc hiệu cao, là một chỉ thị tốt cho phép tiên lượng tình trạng di căn, khả năng sống thêm, cũng như đánh giá đáp ứng điều trị và theo dõi sau mổ bệnh nhân UT tụy. Vai trò của CA 19-9 ngày càng được khẳng định và tỏ ra ưu việt hơn CEA và các loại chất chỉ điểm khác [9], [38]. Theo nghiên cứu của Hoàng Văn Sơn thì giá trị trung bình của CA 19-9 ở người việt nam là 12,12 U/l. Trong đó có 99,6% <37 U/ml; giới hạn tham chiếu: <37 U/ml [39]. Theo Đỗ Trường Sơn thì

“ Nếu trên siêu âm hoặc city có một khối u khu trú ở tụy và kết quả xét nghiệm CA 19-9 nằm trong khoảng 37-100 U/ml thì rất nghi ngờ là ung thư tụy; nếu

≥500 U/ml thì chẩn đoán UT gần như chắc chắn [6].

- Các biện pháp đánh giá trong lúc mổ:

Nhằm hai mục tiêu là chẩn đoán xác định và tiên lượng cuộc mổ. Trong lúc mổ có thể sinh thiết làm giải phẫu bệnh nhanh để chẩn đoán ngay trong lúc mổ. Quan trọng hơn là đánh giá được khả năng cắt được khối u hay không. Thăm khám mạc nối, xem phúc mạc, thực hiện thủ thuật Kocher bóc tách đầu tụy ra khỏi tĩnh mạch chủ dưới, nếu u đã xâm lấn vào 2 thành phần này thì chống chỉ định cắt u.

Một phần của tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật ung thư đầu tụy tại bệnh viện việt đức (Trang 23 - 27)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(95 trang)
w