Chưong 2 KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
2. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THO CHỮ HÁN ĐÀO TÁN
2.3. Không gian đời thường
Không gian đời thường trong thơ chữ Hán Đào Tấn là không gian gắn với những sinh hoạt đời thường, hàng ngày của tác giả cũng như của người dân lao động. Ở thơ chữ Hán Đào Tấn, hình thức không gian này có sự dịch chuyển biên độ từ không gian nhỏ hẹp trong nhà đến không gian rộng mở: ngoài hiên, sân, vườn, ngõ, ngôi đình nhỏ tránh nắng, cánh đồng. Và tuyệt nhiên không có không gian ao làng, lưng giậu hay ngõ trúc quanh co như trong thơ Nguyễn Khuyến. Đây cũng chính là không gian đặc thù của mỗi vùng miền.
Ồ không gian đời thường nhỏ hẹp, Đào Tấn dành tình cảm yêu mến nhất đối với ngôi nhà ông ở. Trong thơ chữ Hán, ông thường gọi ngôi nhà của mình với cái tên rất bình dị, đời thường:
thào thát (nhà cỏ). Qua không gian này, nhũng sinh hoạt đời tư, thói quen cá nhân của tác giả đã từng bước hiện lên. Có thể nói,
THƠ CHU HAN ĐÀO TÁN - NHŨNG đ iể m n h ìn n g h ệ t h u ậ t
goi nha la noi Đào Tấn cảm nhận được đầy đủ nhất sư ấp áp của tinh cảm gia đinh. Trong căn nhà cỏ ấy, nhà tho đã có m ộ ttinh cam vọ chông thăm thiết, bền chặt (Bệnh tích D iêu T‘ên ái Manh thi dược hữu hiệu hý thư thị chi, Thọ Diêu Tiên pl,u ngũ thập s ơ đ Ô> Thinh Diêu Tiên khanh độc tao,..-) ỏng nhận ^ưọc niềm vui noi nhà huyên mẹ mừng con sắp trỡ về
1C quy thư thừ liêu đương biệt giản). Và tác giả còn 3° ưóc aựng một ngôi nhà cao dưới chân núi Linh Phong để anh em sum
ọp (Hoan thành dữ gia cừu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựtO Điem nhân cùa không gian trong nhà là căn phòng- căn phòns nhung nhà thơ không biểu lộ cảm giác ngọt tig?1- c ' h<\p’ lạnh lẽo như trong thơ chữ Hán Nguyễn Du mà 'uôn cam thây thoải mái, âm áp. Bời đây là không gian riêng cùa niột V' ại qua.n’ nơi ônỗ nghi ngơi, đốt hương đọc sách và nhất là trầm tư suy ngầm về những gi đã kinh qua:
Cô miến cầm thư bế tiểu trai.
(Ngam lại sách đàn đóng cửa phòng văn)
(Hoan thành cừu nhật ký hoài kinh trung chư hữu) Phân hương độc tọa phúc quân thi.
(Đôt hương ngồi một minh đọc đi đọc lại thơ ông) (Trùng phỏng Long Cương)
° the nói, những áp lực chính trị, sự cơ cực cùa cuôc đời làm q tan nay đây mai đó đã khiển tác già yêu ngôi nhà, căn phòng cùa ln lơn là chôn quan trường. Tồn tại trong không gian này. Đào
NGUYỄN ĐÌNH THƯ
Tấn thường có những chiêm nghiệm, triết lý sâu sắc. Ồng triết lý vê chữ nhàn:
Nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tiên.
(Một ngày nhàn là một ngày tiên)
(Lục thập sinh n h ậ t M a i viên tiểu chước) Ong triết lý về văn chương và cũng là lẽ sống ở đời:
Văn chitong bổn vô bằng, Đắc thất đương tự tri.
(Văn chương xưa nay vô bờ bến,
Cũng như chuyện được mốt ỏ đòi nên tụ biết) (Ký nhi)
Đó còn là những triết lý về thái độ sống trong nhiều thi phẩm như:
Thứ vận tống Cúc Viên Trương Đ ông Các công trí sự , P hỏ ng nữ tế Vàn Sơn c ư thát th ư d ữ cỉti,.,.
Khi hướng ra không gian quanh nhà (ngoài hiên, sân, vườn, ngõ,...), phù hợp với tính chất rộng mờ, giao hoà cùng không gian tự nhiên, tác giả lại thường thể hiện sự giao lưu, sum vầy, nlìừng gì vui tươi, rộn rã hơn là hướng nội. Nơi ấy, một ông quan mũ cao áo dài đạo mạo đã trở về với một hĩOTìg dân giản dị, đời thường: ngôi vườn là chốn ông sum vầy cùng gia đình:
Cố viên kim tịch hụv đoàn viên (Thất tịch tiểu đề)
Hiên phía đông là chỗ ông trò chuyện cùng bọn con trẻ:
THƠ CHỦ’ HÁN ĐÀO TẢN - NHỮNG ĐIẾM NHÌN NGHỆ THUẬT
Đông hiên tiểu tọa đối nhi tào.
(Cửu n h ậ t ngẫ u đắc)
Đó là những phút giây ông cảm thấy thanh thản, yên bình nhất, dù ít ỏi nhưng lại có ý nghĩa rất lớn, nhằm đối trọng vói nhũng áp lực của cuộc đời làm quan để có thể cân bằng trạng thái tâm lý. Riêng không gian ruộng, vườn trong thơ chữ Hán Đào Tấn còn được tác giả sử dụng như một ẩn dụ, thể hiện khát vọng về hưu, tư tường nhàn tản: Tuế mộ ngẫu chiếm th ư ký H à Đ ìn h h ư u ông, Thạch
Tuyên nhị tử nhập Quốc học lăm h à n h th ư th ử m iễn chi (kỳ nhị), Đinh M ù i nguyên đán tức s ự th ỉ bút.
Gắn với những gì diễn ra trong quan hệ bằng hữu, gia đình là điểm nổi bật trong không gian đòi thường ờ sáng tác thơ chữ Hán của cụ Đào. 15/141 bài thơ chữ Hán là số lượng sáng tác, tác giả dùng đề bộc lộ tình cảm, tâm trạng trong lúc dạo chơi cùng bạn; đi thăm, tiễn, viếng bạn hay ngay cả lúc một mình nhớ bạn.
Nhà thơ còn có nhiều thi phẩm chữ Hán sáng tác trong dịp sinh nhật (bàn thân và vợ), lúc dạo chơi cùng vợ, điếu vợ, mong nhớ mẹ.
vợ, con; những ngày con trai đi thi, con gái lấy chồng, con sinh cháu, đên nhà con chơi,... Chỉ bây nhiêu thôi đủ cho ta thây một Đào Tàn đăm thắm trong các mối quan hệ thân hữu, luôn biết vui với nhưng niềm vui giản dị, bền chặt trong cuộc sống đời thường.
Có thể nói, đặc sắc nhất ỏ- không gian đời thường trong thơ chữ Hán Đảo Tấn là chúng được đánh dấu, nổi bật qua những ngày lễ, tết trong năm. Từ ngày lập xuân, hoa triêu, cho đến tlìàt tịch, rằm tháng bảy, trùng cửu, đặc biệt là ba mươi tết, tết nguyên dán,... đã thường xuyên lặp lại và có mặt trong 22/141 bài tho
NGUYỄN ĐÌNH THƯ
chữ Hán của tác giả. Nơi ấy luôn gắn vói những sinh hoạt văn hóa cổ truyền. Điều đáng nói là tác giả không tồn tại với tư cách người ngoài cuộc để quan sát mà luôn hòa mình vào không gian sinh hoạt văn hóa trong các ngày lễ đó. Đêm hoa triêu (đêm kỷ niệm sinh nhật các loài hoa) là đêm Đào Tấn cùng vợ ôn lại chuyện phong lưu dưới khóm hoa hải đường:
Hài đường hoa hạ thuyết phong hru.
(Dưới khóm hoa hải đường cùng nói chuyện phong lưu) (Hoa triêu dạ dữ nội h ữ u D iêu Tiên khanh du Diệc c ổ tự) Ngày thất tịch (ngày 7/7, ngày Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau) là ngày tác giả xem mình như clìàng Ngâu già mong gặp lại quê nhà:
Tùng cúc biệt lai tam thập tài, Giai kỳ ngã diệc lão khiên Ngint.
(Ba mươi năm xa cội tùng khóm cúc,
Nên ta cũng là chàng Ngâu già mong ngày gặp lại) (Thất tịch)
Còn ngày trùng cửu (ngày 9/9, ngày các thi nhân đăng cao ẩm tửu, ngâm vịnh), nhà thơ không quên mình đã từng lên núi để uống rượu với bạn bè:
Tiếu chỉ quần sơn phiếm lục giao.
(Cười chỉ dãy núi kia là nơi từng đến uống rượu) (Cửu nhật ngẫu đắc)
THƠ CHỦ' HÁN ĐÀO TÂN - n h ũ n g đ i ể m n h ì n n g h ệ THUÂT
xuân ,Nhữ? nẻt đẹp,văn hóa truyền thống như khai bút đấu đươc r uc n iU ngày t®t cho dến dung cây nêu ờ sân nhà,.-- đ^u
z tr° ng sáng tác * ơ ( ¿01*00 nguyền nhật
7 i H T 8 k m i bút’ Tển Sửĩấ trỉv *&*’—)■ Chù đề này phần nào ay trong sáng tác cùa vị quan đồng triều với Đào Tấn là Nguyên Khuyến. Và về sau, nó vẫn còn được biểu hiên ơ sáng tác cua nlnêu tác giả trong phong trào Thơ mới như Vũ Đình Liên, Anh Thơ, Đoản Vàn Cừ, Nguyên Bính,... Gắn với những sinh th°ạt hÓa truy!" thống’ bởi không gian đời thường trong
„lir ^ an ^ a° da manê màu sắc phương Đông và phong vị
dân tộc khá rõ. g
Khi tim hiếu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng của Ho Xuân Hương, Trương Xuân Tiếu đã nhận thấy kiểu không gian sinh hoạt, đời thường “được nhà thơ thể hiện qua rất nhiều ai thơ vinh vật và vịnh việc”1. Trên phương diện không gia’1 dõi ương gan V Ó I hoạt động lao động cùa người dân đặc điếm này lại ít thấy trong thể giới nghệ thuật thơ chư Hán Đào Tấn. Những loạt đọng lao động, sản xuất của người dân trong thơ c h ữ Hán ao Tan dường như vắng bóng. Duy chỉ có một thi phẩm miêu tá loạt đọng đạp guông nước cùa cô thôn nữ trong tiết trời tháng sáu khô hạn:
nguyệt, lục nguyệt bất vũ thiên, Đạp xa nhi nữ ca í hà miên.
(Tháng năm, tháng sáu trời chẳng mưa
hutg'uu V " í2002>’ Tỉ'lì m ‘hu giới nghệ thuật tho Nôm httyu
m ú <L“W ™ Tiến S m va,;;. V iớ„ v ó „ hú" ằ
NGUYỄN ĐÌNH THƯ
Cô gái đạp guồng xe nước vừa hát vừa ngủ gật) (T h ủ y xa)
Có thể nói, không phải Đào công bàng quan trước cuộc sống lao động của người dân mà dường như sự vắng bóng những khung cảnh lao động phần nào phản ánh bức tranh ảm đạm của cuộc sống người dân trong tình cảnh chiến tranh, loạn lạc. Bời vậy, không gian đời thường trong thơ chữ Hán Đào Tấn thiếu đi sinh khí sôi nổi từ hoạt động lao động của con người.
Tựu trung, không gian đời thường trong thơ chữ Hán Đào Tấn đã được tác giả biểu hiện khá cụ thê. Chính tâm hồn, hứng thỳ của nhà thơ hướng về nhữnc sinh hoạt giản dị, đũi thườnô bờn băng hữu, thân hữu đã làm nên một Đào Tấn mộc mạc mà thanh tao, cởi mở mà sâu sắc. Một lần nữa, vẻ đẹp truyền thống của con người phương Đông nói chung, Nho sĩ nói riêng có thể được nhận diện qua con người tác giả trong hình thức không gian này.