CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN TẠI CỤC HẢI QUAN
1.2. Những nhân tố thúc đẩy đổi mới hoạt động kiểm tra sau thông
1.2.1. Khách quan
Nếu yếu tố bên trong ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác thì yếu tố bên ngoài sẽ ảnh hưởng một cách gián tiếp và hoạt động KTSTQ, các yếu tố bên ngoài như sau:
- Xu thế hội nhập quốc tế nhanh chóng
Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ hội nhập phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng kéo theo hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng về số lượng và phong phú về chủng loại. Do đó công tác KTSTQ được tăng cường để đáp ứng yêu cầu
Kiểm tra tại cơ quan hải quan 1. Xác định đối tượng, phạm vi kiểm tra
2. Thực hiện KTSTQ 3. Xử lý kết quả kiểm tra
Kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp 1. Xác định đối tượng
2. Chuẩn bị kiểm tra, ban hành quyết định kiểm tra
3. Kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp 4. Kết lụân KTSTQ
5. Báo cáo kết quả và đề xuất xử lý
Tổ chức thực hiện kết quả KTSTQ 1. Quyết định ấn định thuế (nếu có)
2. Xử lý vi phạm theo tính chất mức độ vi phạm (nếu có) 3. Giải quyết khiếu nại (nếu có)
4. Tổ chức rút kinh nghiệm
5. Cập nhật thông tin và lưu trữ hồ sơ
giảm thiểu thời gian thông quan nhanh chóng ngay tại cửa khẩu, thực hiện chuyển từ “tiền kiểm” sang “ hậu kiểm”. Ngành hải quan cần nghiên cứu triển khai áp dụng phương pháp KTSTQ hiện đại theo gợi ý của tổ chức hải quan thế giới (WCO) cũng như các kỹ thuật KTSTQ được đề xuất từ hải quan các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
- Hệ thống cơ sở pháp lý
Hiệu lực KTSTQ được quyết định bởi hệ thống pháp lý trong đó phải kể đến là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong và ngoài ngành hải quan như Luật hải quan, luật quản lý thuế, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, các văn bản hướng dẫn dưới luật. Hơn nữa, KTSTQ được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật là yêu cầu hàng đầu, do đó cần đảm bảm bảo hệ thống cơ sở pháp lý vững chắc trên cơ sở nguyên tắc pháp luật Việt Nam và thông lệ luật pháp quốc tế, các công ước mà Việt Nam ký kết tham gia như công ước Kyoto, về trị giá GATT…
- Sự phối kết hợp với các lực lượng có liên quan
Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa có liên quan đến nhiều đơn vị tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước khác. Vì vậy, bên cạnh sự phối kết hợp của các đơn vị, phòng ban trong ngành hải quan thì cần có sự phối kết hợp từ những cơ quan ngoài ngành như cơ quan thuế, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, hàng hải, kho bạc, công an, pháp chế, vụ chính sách…Mối quan hệ và sự phối kết hợp này tạo nên sự ràng buộc và lôgic trong quá trình KTSTQ. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sự phối hợp này còn phải kể đến sự phối hợp trao đổi thông tin về nghiệp vụ kinh nghiệm giữa hải quan các nước trong khu vực và quốc tế.
- Sự đồng thuận của cộng đồng doanh nghiệp
KTSTQ là nghiệp vụ mới của ngành hải quan trên cơ sở áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong quản lý hải quan hiện đại, do đó rất cần sự đồng thuận
từ cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội thì KTSTQ mới đạt được kết quả tốt nhất.
- Áp lực về chỉ tiêu thu nộp ngân sách
Trong số chỉ tiêu thu nộp ngân sách có chỉ tiêu thu từ KTSTQ. Nếu việc giao chỉ tiêu phù hợp với tình hình thực tế của cục hải quan đó thì sẽ có ảnh hưởng tốt đến việc triển khai KTSTQ, nếu giao chi tiêu cao quá thì sẽ là áp lực tâm lý về thu nộp sẽ là yếu tố ảnh hưởng ngược cho mỗi đơn vị cục hải quan.
- Áp lực từ phía doanh nghiệp
Với sự phát triển thông tin và công nghệ thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngày càng khẳng định vị thế của mình, doanh nghiệp có sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật và có ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đặc biệt với chính quyền địa phương. Do đó, khi tiến hành KTSTQ thì áp lực từ phía doanh nghiệp sẽ rất lớn và nếu như cơ quan hải quan không thể đáp ứng được những yêu cầu từ phía doanh nghiệp hoặc cơ quan hải quan thực hiện KTSTQ không đúng theo quy định.
- Sự chỉ đạo, điều hành của cơ quan cấp trên
Cơ quan cấp trên cần có sự chỉ đạo điều hành kịp thời nhằm giải quyết những vướng mắc vượt ngoài thẩm quyền của đơn vị cơ sở, sự điều hành kịp thời quyết định sự thành công của một vụ việc KTSTQ khi xảy ra những trường hợp nằm ngoài thẩm quyền hoặc luật pháp chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng. Ngoài ra sự điều hành còn có ảnh hưởng sâu sắc về tư duy làm việc và cách thức làm việc của đơn vị cơ sở, của mỗi công chức KTSTQ.
1.2.2. Chủ quan
Các nhân tố thuộc Cục hải quan hay còn gọi là yếu tố bên trong sẽ là yếu tố tác động mạnh nhất đến KTSTQ. Nếu như yếu tố bên trong này tốt và mạnh sẽ góp phần vào hiệu quả của KTSTQ tại cục hải quan, nếu không tốt thì sẽ tác động đến mục tiêu KTSTQ theo chiều hướng ngược lại. Đó là các nhân tố cơ bản sau:
- Quan điểm và năng lực quản lý, điều hành của nhà lãnh đạo
Đây là một yếu rất quan trọng bởi việc tổ chức thực thi đòi hỏi có năng lực quản lý, điều hành và xuất phát từ quan điểm của nhà lãnh đạo. Trong thực tế, người quản lý đòi hỏi không chỉ có trình độ về chuyên môn mà còn phải có trình độ về quản lý, tổ chức thực hiện, đảm bảo điều hành tổ chức đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, lãnh đạo các cấp cục hải quan cần có quan điểm rõ ràng về tầm quan trọng của hoạt động KTSTQ để từ đó quyết định bố trí, sắp xếp, sử dụng và đào tạo cán bộ công chức trong bộ máy hoạt động một cách phù hợp nhất đảm bảo đạt được mục tiêu và hiệu lực của KTSTQ.
- Bộ máy kiểm soát
+ Là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự thành công của công tác quản lý nói chung và KTSTQ nói riêng. Để thực hiện KTSTQ cần có một cơ cấu tổ chức phù hợp với tính chất, quy mô và yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Thực hiện được mục tiêu KTSTQ hay không tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và sự vận hành bộ máy cơ cấu tổ chức đó mà yếu tố quan trọng hàng đầu chính là con người. Nếu công chức KTSTQ không thông thạo nghiệp vụ thì sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống KTSTQ, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động chung của đơn vị, dễ gây thiệt hại cho cả nhà nước và doanh nghiệp. Theo đó chất lượng đội ngũ công chức KTSTQ còn phụ thuộc vào việc đào tạo, nâng cao trình độ, phụ thuộc vào công tác rà soát và bổ nhiệm cán bộ…
+ Chế độ luân chuyển cán bộ công chức trong ngành: Với đặc thù hoạt động quản lý của ngành hải quan dễ phát sinh tiêu cực do môi trường công chức thường xuyên tiếp xúc với “ tiền và hàng”, trong khi mức sống của công chức chưa thực sự đảm bảo, lương khá thấp thì dễ có hiện tượng tham những, móc ngoặc, thông đồng với doanh nghiệp xuất nhập khẩu để “hai bên” cùng kiếm lợi.
Để ngăn chặn tình trạng này, ngành hải quan đưa ra quy định về việc luân chuyển cán bộ, theo đó thời gian công tác của công chức ở mối đơn vị phòng
ban từ 2 đến 3 năm sẽ được luân chuyển trong nội bộ cục hải quan để lảm công tác khác, trong đó bao gồm có công chức KTSTQ. Điều này gây một tâm lý không ổn định trong đội ngũ công chức KTSTQ, trong khi đó công chức được xem là có kinh nghiệm và làm tốt nhất KTSTQ đòi hỏi phải có ít nhất 5 năm công tác trong lĩnh vực này.
- Thời gian phê duyệt kế hoạch kiểm tra theo từng năm cho Cục hải quan Theo quy định hiện hành, Cục hải quan phải xây dựng được dự thảo kế hoạch các doanh nghiệp xuất nhập khẩu dự kiến kiểm tra trình cấp tổng cục hải quan trong tháng 11 của năm trước và kế hoạch KTSTQ sẽ được phê duyệt để tiến hành kiểm tra vào tháng 01 năm tiếp theo, khi được phê duyệt thì cục hải quan mới có căn cứ để triển khai thực hiện. Do đó, thời gian phê duyệt sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến việc triển khai nhiệm vụ chung của Cục hải quan cũng như KTSTQ.