Hiểu văn bản trong trò chơi ngôn ngữ

Một phần của tài liệu Vấn đề tiếp nhận thơ nôm hồ xuân hương (Trang 29 - 183)

Tuy ý thức sâu sắc được mối quan hệ giữa chân trời bên trong của kinh nghiệm văn học và chân trời bên ngoài của trải nghiệm đời sống, nhưng Jauss vẫn chưa giải quyết được vấn đề làm thế nào nhận thức được mối quan

hệ đan xen rất phức tạp này của chúng trong ngôn ngữ. Nói cách khác, nếu xem văn bản phê bình là biểu hiện của kết quả tiếp nhận, thì bằng cách nào ta có thể phân tách được những tác động ở bề sâu, với tư cách là những tác động của chân trời, chi phối sự tiếp nhận? Văn bản phê bình là một diễn ngôn phức tạp, được đan dệt nên bởi vô số những mục đích, quy chuẩn, dự phóng; nó cũng chịu sự ràng buộc phức tạp không chỉ bởi quan niệm thẩm mỹ, quan niệm văn học, mà còn bởi văn hóa, xã hội, chính trị…, bởi những cộng đồng lý giải hiện rõ hay ngầm ẩn bằng hình thức này hay hình thức khác.

Mặt khác, không phải văn bản nào cũng là tác phẩm trong chân trời kinh nghiệm văn học; mỗi văn bản, để được định vị là tác phẩm, phải có sự phù hợp, tương ứng nhất định với các quy tắc, quy chuẩn và quy ước với chân trời khi nó xuất hiện. Hay dưới nhãn quan “trò chơi ngôn ngữ” của Wittgenstein, tác phẩm ấy phải phù hợp với “ngữ pháp” của trò chơi ngôn ngữ, nghĩa là những quy ước sử dụng ngôn ngữ để tác phẩm được xét như là tác phẩm. Đây là lý do chính mà Jauss gợi ý liên hệ khái niệm “chân trời”

với khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” (Sprachspiel) của Wittgenstein.

Sự liên tưởng của Jauss về mối quan hệ giữa “chân trời” và “trò chơi ngôn ngữ” xuất hiện trong một phần đề cập đến những tiền giả định lý thuyết cho việc hình thành ý niệm về chân trời. Ông cho rằng một khái quát lịch sử vấn đề chân trời cần nên bao gồm các học thuyết khác, các học thuyết mà hầu hết chúng gần đây đều đã bắt đầu đặt vấn đề về các tiền giả định thông diễn cho nền tảng lý thuyết của chúng và đã xây dựng một cách mặc nhiên hay minh nhiên ý niệm về chân trời. Ông nêu lại các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau xây dựng ý niệm chân trời cho nền tảng lý thuyết của chúng.

Và theo ông, chốt cùng lại thì ý niệm chân trời “như là trò chơi ngôn ngữ trong triết học phân tích ngôn ngữ giai đoạn hậu kỳ của Wittgenstein, chính

trò chơi ngôn ngữ về cơ bản đã giúp cho toàn bộ việc hiểu nghĩa có thể có được, và do vậy, nó đã làm được việc trước đây hình thức logic của ngôn ngữ chính xác thuộc về việc miêu tả thế giới đã làm” [149; tr.659]. Ở đây, Jauss đặt khái niệm “chân trời” trong quan hệ với khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” của Wittgenstein, hay là đã liên hệ đến việc nhìn nhận vấn đề chân trời của thông diễn học trong phạm vi triết học phân tích ngôn ngữ ngày thường của Wittgenstein.

Theo Wittgenstein, trò chơi ngôn ngữ được cấu tạo bằng những phát ngôn, là những nước đi của trò chơi. Phát ngôn được hình thành trong ngữ cảnh đời sống, nhưng cũng làm biến đổi ngữ cảnh đời sống này. Nói ra một điều gì đó đồng thời cũng tạo ra một biến đổi cho điều được nói. Khi nói

“Cửa đang mở. Hãy đóng cửa lại. Đóng cửa lại thì tốt hơn”, thì mỗi câu trong chuỗi phát ngôn ấy liên tục tạo ra những quan hệ khác nhau giữa người nói, người nghe và đối tượng được nói đến. Chúng là những trò chơi ngôn ngữ khác nhau, tạo lập và được tạo lập từ các quy tắc khác nhau.

Phát ngôn được tạo lập và bị chi phối bởi những quy tắc, tồn tại trong ngữ cảnh đời sống sinh ra nó. Một phát ngôn chẳng hạn như “Cửa đang mở”

có những quy tắc để hiểu khác với phát ngôn “Hãy đóng cửa lại”, hay “Đóng cửa lại thì tốt hơn”, hoặc “Tôi bán cho anh cánh cửa này”… “Cửa đang mở”

là một phát ngôn sở thị, quy tắc của nó là đúng/ sai so với hiện thực được nói đến: cửa có đang thực sự mở hay không. Nhưng “Hãy đóng cửa lại” là một phát ngôn chỉ thị, quy tắc của nó là người nói có thẩm quyền để yêu cầu điều đó đối với người nghe hay không. “Đóng cửa lại thì tốt hơn” là một phát ngôn định giá trị, quy tắc của nó là tiêu chuẩn giá trị có phổ biến cho cả người nói lẫn người nghe hay không. “Tôi bán cho anh cánh cửa này” là phát ngôn ngôn hành, quy tắc là người nói có đủ quyền để thực hiện điều được

nói hay không. Nhưng những quy tắc này không cố định, nó có tính thời gian, nó luôn thay đổi theo nhu cầu, khi những trò chơi mới được tạo ra.

Theo Wittgenstein, trò chơi ngôn ngữ có những “nước đi” của nó. Nếu mỗi văn bản là một trò chơi ngôn ngữ thì những nước đi của trò chơi này là những câu văn trong văn bản. Những nước đi này bị chi phối của cái mà ông gọi là “ngữ pháp” của trò chơi ngôn ngữ. Với Wittgenstein, “ngữ pháp” của trò chơi ngôn ngữ không phải ngữ pháp theo nghĩa của ngôn ngữ học, mà là toàn bộ những gì cấu tạo nên trò chơi và làm cho mỗi nước đi có “ý nghĩa”

đối với người tham gia trong ngữ cảnh: chúng là các quy tắc, hay những luật chơi. Ngược lại, mỗi văn bản lại là một “nước đi” trong một trò chơi ngôn ngữ lớn hơn, và cứ tiếp tục như vậy. Điều này sẽ được hiểu rõ hơn trong sự liên hệ giữa trò chơi ngôn ngữ và hình thức cuộc sống.

Trên một ý niệm như vậy về việc sử dụng ngôn ngữ, Wittgenstein mở rộng khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” và đặt nó trong toàn bộ phức thể những hoạt động sống của con người: “Ở đây thuật ngữ ‘trò chơi ngôn ngữ’ có vai trò quan trọng nhằm làm nổi rõ một sự kiện là việc nói một ngôn ngữ là một bộ phận của một hoạt động, hay [một bộ phận] của một hình thức cuộc sống”

(153, 23). Ông cho rằng, với sự hình dung như vậy, “trò chơi ngôn ngữ” hằn sâu (embedding) trong các hoạt động sống khác nhau của ta. Và chính trong các hoạt động sống đó, nó mới có ý nghĩa. Trò chơi ngôn ngữ không như các trò chơi khác, nó không có tính tự trị, tách biệt, mà gắn bó với hình thức cuộc sống.

Trong một số tiểu đoạn khác, Wittgenstein tiếp tục khai triển mối quan hệ biện chứng giữa trò chơi ngôn ngữ và hình thức cuộc sống. Ông viết:

“Hình dung một trò chơi ngôn ngữ nghĩa là hình dung một hình thức cuộc sống” (153, 7, 19). Theo đó, một hình thức cuộc sống là một sự hình thành văn hóa hay xã hội, tức là tổng thể những hành vi giao tiếp trong đó trò chơi

ngôn ngữ hằn sâu. Các hình thức cuộc sống là toàn thể ngữ cảnh văn hóa xã hội đã thiết định nên chúng ta, trong đó chúng ta hoạt động, nói năng, sử dụng ngôn ngữ để tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống cho mình. Wittgenstein viết:

“Cái gì phải được thừa nhận, được thiết định – như ta có thể nói – là các hình thức cuộc sống” (149, 226).

Mỗi người sử dụng ngôn ngữ với tư cách một trò chơi ngôn ngữ trong một hình thức cuộc sống; nhưng bản thân họ cũng tham gia vào trò chơi ngôn ngữ của các hình thức cuộc sống khác nhau. Đó là thân phận của mỗi người khi đến với văn bản văn học trong văn bản đời sống. Sự lý giải văn bản của người đọc là hữu hạn, nhìn ở góc độ nào đó là bởi sự hữu hạn chân trời của riêng họ; nhìn ở góc độ khác, là vì họ sống trong các trò chơi ngôn ngữ ước định của cuộc sống, trong đó, để tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời của riêng mình, bằng cách này hay cách khác họ buộc phải tuân theo các quy tắc và quy ước của nó.

Tư tưởng của Wittgenstein được Jean-Franỗois Lyotard tiếp tục triển khai rộng hơn. Theo ông, “Có thể rút ba quan sát về chủ đề trò chơi ngôn ngữ. Thứ nhất, các quy tắc của chúng không có sự hợp thức hóa ở bản thân chúng, mà chúng là khế ước mặc nhiên hay minh nhiên giữa các người chơi (nhưng điều này không có ý nói họ là người phát minh ra các quy tắc). Thứ hai, không có quy tắc thì không có trò chơi, một sự thay đổi dù là nhỏ của một quy tắc cũng làm thay đổi bản tính của trò chơi, và một “nước cờ” hay một phát ngôn không thỏa mãn các quy tắc thì không thuộc về trò chơi được xác định bằng các quy tắc ấy. Thứ ba, như vừa nói trong điều trên: mọi phát ngôn phải được xem như một nước đi trong một trò chơi.

Quan sát thứ ba này đưa tới sự thừa nhận một nguyên lý đầu tiên làm cơ sở cho toàn bộ phương pháp của chúng ta: phát ngôn là đấu tranh, hiểu

theo nghĩa chơi, và các hành vi ngôn ngữ cho thấy một sự đối chọi, tranh đua chung” [43; tr.80].

Jean-Franỗois Lyotard sử dụng khỏi niệm “trũ chơi ngụn ngữ” như một phương pháp để phân tích hoàn cảnh hậu hiện đại của khoa học. Theo Lyotard, khoa học trong hoàn cảnh tiền hiện đại và hiện đại là một trò chơi ngôn ngữ mà để “hợp thức hóa tri thức” nó phải viện dẫn những “đại tự sự”.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hậu hiện đại, không có một ngôn ngữ “nói chung”, và không có một quy tắc phán đoán phổ quát để “phân xử” những loại diễn ngôn không thể so sánh được với nhau [56; tr.47]. Nói cách khác, không có một “siêu trò chơi ngôn ngữ” mà chỉ còn là sự đa tạp của các hình thức trò chơi ngôn ngữ khác nhau.

Tuy nhiên, trọng điểm lý thuyết mà ta có thể vận dụng trong trường hợp nghiên cứu tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương tại Việt Nam là quan niệm của Lyotard về các “trò chơi ngôn ngữ” trong bối cảnh tiền hiện đại và hiện đại. Trong bối cảnh ấy, một trò chơi ngôn ngữ có thể viện dẫn các “đại tự sự” làm cơ sở cho mình, và do đó, một trò chơi ngôn ngữ có thể bị chi phối bởi các quy tắc và quy ước của một đại tự sự nằm ngoài bản thân nó.

Theo nghiên cứu của Lyotard, có những “đại tự sự” phổ quát chi phối các trò chơi ngôn ngữ khác bằng các quy tắc và quy ước của chúng. Sự khai triển này không xa rời phạm vi quan niệm của Wittgenstein về trò chơi ngôn ngữ gắn liền với hình thức cuộc sống, và những hình thức cuộc sống cũng nằm trong những trò chơi ngôn ngữ. Nhưng rõ ràng, sự khai triển này cho phép ta nhìn nhận những diễn ngôn văn học (sáng tác và tiếp nhận) như là những

“nước đi” của trò chơi ngôn ngữ chịu sự chi phối bởi bối cảnh, mục đích và các quy tắc, đôi khi của các trò chơi ngôn ngữ lớn hơn, đóng vai trò như những “đại tự sự”. Một cách nhìn nhận như vậy có khả năng gợi ý cho

nghiên cứu những hiện tượng tiếp nhận văn học trong những bối cảnh xã hội lịch sử đặc thù.

Và cuối cùng, từ gợi ý của Wittgenstein về mối quan hệ giữa hình thức cuộc sống cũng và các trò chơi ngôn ngữ, có thể thấy, trong một bối cảnh đặc thù, các hoạt động văn học bị chi phối bởi những quy tắc và quy ước khác nhau nằm trong một hệ thống của những quy tắc và quy ước đặc thù lớn hơn của lịch sử. Đó có thể là một ngữ cảnh trò chơi ngôn ngữ của thời chiến tranh lạnh, trong đó sự đối đầu có tính chất ý thức hệ giữa khối xã hội chủ nghĩa và khối tư bản chủ nghĩa đã tạo nên những tác động đối với diễn ngôn phê bình và sáng tác văn học. Nói cách khác, nó đã làm cho chúng ta nhìn cuộc sống và “mô tả sự xuất hiện” của tác phẩm cũng như “xác lập một khuôn khổ cho nó” theo những cách thức nhất định.

Ở đây, quan niệm về chân trời như là trò chơi ngôn ngữ trong hình thức cuộc sống trở nên hữu dụng ở chỗ nó gợi ý cho ta cách thức nhận ra được sự đan xen phức tạp giữa các quy tắc và quy ước của các trò chơi ngôn ngữ khác nhau mà nhà phê bình tuân theo. Trong việc đối chiếu với các hình thức cuộc sống tương ứng, nó còn cho thấy có thể nhà phê bình đã thực hiện trò chơi ngôn ngữ trong phạm vi hữu thức và vô thức để tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của riêng mình, nghĩa là để thực hành sống.

1.1.3. Logic câu hỏi và câu trả lời của các trò chơi ngôn ngữ

Mỗi văn bản tồn tại trong một chân trời và sinh ra từ một trò chơi ngôn ngữ cụ thể. Chiếu dời đô thoạt tiên là một văn bản chính luận tuyên bố việc dời đô, bài thơ Nam quốc sơn hà được cho là của Lý Thường Kiệt có mục đích cổ vũ cuộc kháng chiến, còn Bình Ngô đại cáo thì tuyên bố thắng trận, giải thích nguyên nhân tha chết cho quân giặc, gợi niềm tin vào một giai đoạn lịch sử mới…, Truyện Kiều cũng có thể hiểu là bản quốc âm của Kim Vân Kiều truyện trong trào lưu phiên dịch truyện tài tử giai nhân trong văn

hóa Trung Quốc thời bấy giờ… Tuy vậy, văn bản văn học không chỉ là một văn bản với những kí hiệu tồn tại trong hình thức vật lý và hóa học, nó là hệ thống những ký hiệu luôn làm thức tỉnh con người bằng những câu hỏi. Thúy Kiều là người phụ nữ có nhân phẩm hay không? Nguyễn Du mang tâm sự hoài Lê hay chống phong kiến? Những hình ảnh trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương là hợp với luân lý hay là trái với luân lý? Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có giá trị hay không? Nói cách khác, mỗi văn bản văn học cũng là những câu hỏi, là chân trời của câu hỏi sinh ra từ thời đại của nó luôn đòi hỏi người đọc ở những thời đại sau tìm câu trả lời.

Trong mỗi thời đại lịch sử khác nhau, những văn bản này đều đặt ra cho người đọc những câu hỏi, để từ chân trời cụ thể của họ, họ có những câu trả lời và cách hiểu không hoàn toàn giống nhau, không chỉ trong từng khía cạnh nội dung cụ thể, mà còn trong cả tư tưởng chủ đề chung của tác phẩm.

Nói cách khác, mỗi thời đại khác nhau đó, người đọc từ chân trời và trò chơi ngôn ngữ của mình, đặt câu hỏi về ý nghĩa của văn bản văn học, và tìm kiếm câu trả lời cho ý nghĩa ấy từ cách hiểu và tiếp nhận của riêng mình. Vấn đề đặt ra ở đây là có hay không sự tác động hay mối quan hệ giữa câu hỏi và câu trả lời từ một chân trời này với câu hỏi và câu trả lời từ một chân trời khác? Hay nói cách khác, có hay không tính lịch sử giữa các câu trả lời khác nhau trên tiến trình thời gian? Đó là vấn đề mà các lý thuyết gia triết học lịch sử và thông diễn học triết học đã nêu ra và giải quyết trong khái niệm “logic của câu hỏi và câu trả lời”. Khái niệm này được kế thừa và vận dụng trong phương pháp nghiên cứu tính lịch sử của quá trình tiếp nhận trong thông diễn học văn học của Hans Robert Jauss.

Khái niệm “logic của câu hỏi và câu trả lời” là khái niệm có tầm độ lý luận sâu rộng của triết học lịch sử, thông diễn học triết học và thông diễn học văn học. Khái niệm này do Robin George Collingwood đặt ra. Sau đó, trên

cơ sở triển khai những ý niệm về đối thoại trong các công trình của Plato và việc phê phán quan niệm của Collingwood về khái niệm này, Gadamer mở rộng và vận dụng nó vào thông diễn học triết học theo cách thức khác với Collingwood. Khái niệm này tiếp tục được Jauss kế thừa, phát triển nghiêng về phía quan niệm ban đầu của Collingwood, và vận dụng vào thông diễn học văn học để xem xét tính lịch sử của tiếp nhận văn học và phương pháp nghiên cứu tiếp nhận văn học. Theo Collingwood “Để tìm thấy nghĩa của [những gì] anh ta [nói hoặc viết], bạn cũng phải biết câu hỏi là gì, cái câu hỏi mà theo đó những gì anh ta nói hoặc viết được hiểu như là câu trả lời” [102;

tr.31].

Truyền thống lịch sử đặt cho chúng ta câu hỏi về ý nghĩa của những sự kiện trong nó, và chúng ta phải tìm câu trả lời về ý nghĩa này bằng việc phân tích và lý giải chính bản thân các sự kiện trong truyền thống ấy. Mỗi câu trả lời mà chúng ta tìm thấy lại là cơ sở để lý giải những sự kiện khác của truyền thống lịch sử. Tất cả những sự lý giải và những sự kiện được lý giải có liên quan đến nhau, theo nghĩa chúng là những tiền giả định tương quan để soi sáng cho nhau. Nhưng toàn bộ truyền thống lịch sử và những sự kiện của nó là một loại “tiền giả định tuyệt đối”, tức là những gì tạo nên nhận thức của chính chúng ta, bắt buộc chúng ta phải hiểu cuộc sống như thế này hoặc như thế kia. Truyền thống lịch sử là một sự thiết định, đồng thời là một câu hỏi không thể được đánh giá đúng/ sai. Chúng ta không thể từ chối nó, mà chỉ có thể dựa vào nó để hiểu chính nó và hiểu cái khác. Khi chúng ta lý giải truyền thống lịch sử qua những sự kiện, chính những sự kiện là một “tiền giả định tương quan”. Nghĩa là nó vừa là một câu hỏi, vừa là một câu trả lời, trong tương quan với những sự kiện khác. Và khi chúng ta giải nghĩa nó, lời giải nghĩa hay câu trả lời của chúng ta về nó cũng là một “tiền giả định tương

Một phần của tài liệu Vấn đề tiếp nhận thơ nôm hồ xuân hương (Trang 29 - 183)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(194 trang)