4.2. CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI
4.2.2. Sự viện dẫn đại tự sự
Từ góc độ đổi mới và mở cửa hôm nay nhìn lại, đúng như Trần Đình Sử kết luận: “nhìn lại hệ thống quan điểm văn nghệ của giai đoạn 40 năm ấy, ta không thể không thấy, tuy đúng đắn trong hoàn cảnh lúc ấy, nhưng ở vào hoàn cảnh mới hiện nay nó không tránh khỏi những hạn chế như sơ lược và một chiều, khi biến văn nghệ thành vũ khí của chính trị và không tránh khỏi có lúc có người đồng nhất với chính trị, không thấy rõ đặc trưng thẩm mỹ của văn học, chưa tôn trọng vai trò cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ” [64;
tr.730]. Điều này cũng không khác với ý kiến của Fredric Jameson, một nhà lý luận văn học và mỹ học của chủ nghĩa Marx ở phương Tây. Tuy không
1 Đại tự sự là khái niệm do Lyotard đặt ra để chỉ các hệ thống lý thuyết đóng vai trò như là các
“siêu ngôn ngữ”, hay “siêu tự sự” để chứng thực và mang lại sự hợp thức hóa cho tri thức. Theo Lyotard, có các đại tự sự: phép biện chứng của Tinh thần, Thông diễn học về ý nghĩa và sự giải phóng cho chủ thể lý tính và chủ thể lao động. Xem thêm: Lyotard, 2007, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Nxb Tri thức.
nhằm mục đích phê phán, nhưng Jameson cũng cho rằng phê bình văn học của chủ nghĩa Marx chính thống như một “tự sự quyền uy có tính phúng dụ”
(allegorical master narrative), một hình thức tự sự tương tự như “việc lý giải một đoạn văn của Thánh kinh dựa vào cuộc đời Chúa Jêsu” trong văn hóa phương Tây. Nó “ít nhằm đến một kỹ thuật đóng kín văn bản và kỹ thuật đàn áp nghĩa, đàn áp những việc đọc có tính bấp bênh hay sai lạc, mà chủ yếu nhằm đến một chủ nghĩa cơ giới chuẩn bị một văn bản xét như là văn bản cho một sự đầu tư xa hơn có tính ý hệ” [118; tr.28,30]. “Sự đầu tư xa hơn có tính ý hệ” mà Jameson nói đến là một sự chuẩn bị văn bản như là công cụ để giải phóng xã hội, đưa xã hội tiến đến hình thức của chế độ cộng sản, thông qua đấu tranh giai cấp.
Chủ nghĩa Marx lý giải văn bản trong một viễn tượng về sự tiến bộ xã hội dựa trên việc giải phóng sức lao động thông qua đấu tranh giai cấp. Theo đó, giá trị nội dung của văn bản được xét ở góc độ nó là tiếng nói của giai cấp nào, và có lập trường đứng về phía giai cấp cách mạng hay giai cấp phản động. Nói cách khác, nó viện dẫn một tự sự quyền uy, hay một đại tự sự, như một “chân trời tuyệt đối của toàn bộ việc đọc và toàn bộ việc lý giải” [118;
tr.17]. Dưới góc nhìn những văn bản phê bình như là trò chơi ngôn ngữ, có thể thấy phê bình văn học của chủ nghĩa Marx có khuynh hướng, và chủ yếu viện dẫn những quy ước và quy tắc chính trị vào cho các quy ước và quy tắc phê bình văn học. Dưới quan niệm về văn học phục vụ chính trị, sự viện dẫn trên sẽ loại trừ những phát ngôn phê bình không tuân thủ trò chơi ngôn ngữ trong hình thức đời sống đã được mặc định. Tuy nhiên, mặt khác, sự viện dẫn này lại tạo thành các luận đề đặt cơ sở cho sự khẳng định giá trị thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Về cơ bản, phát ngôn phê bình văn học là phát ngôn sở thị, nghĩa là nó trình bày và mô tả điều mà người nói hiểu về tác phẩm văn học được phê
bình. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lịch sử xã hội từ 1945 tại miền Bắc, có hiện tượng các phát ngôn sở thị của phê bình văn học kín đáo viện dẫn các quy tắc và quy ước của phát ngôn chỉ thị dưới hình thức chính trị hóa. Tiến trình viện dẫn này có tính lịch sử và diễn ra từng bước, trong đó các phát ngôn chỉ thị được chính trị hóa dần tham dự và chi phối các phát ngôn phê bình văn học sở thị trong một trò chơi ngôn ngữ cụ thể.
Trò chơi ngôn ngữ được thiết lập ngay trong hoàn cảnh và sự kiện giao tiếp 1. Nói cách khác, nó được thiết lập và thay đổi ngay trong lúc phát ngôn, bằng các phát ngôn của những người tham gia. Một đặc điểm của trò chơi ngôn ngữ là nó được mặc định bởi các quy tắc, quy ước. Chẳng hạn như, với một phát ngôn sở thị (dénotation) “còn thơ cô Hồ thì phần nhiều là giọng lả lơi, thô bỉ, tài thì có tài, mà không có thể làm phép cho nhà thơ”, thì trong phát ngôn ấy Phan Kế Bính trình bày một đánh giá của ông trong tư cách ông là người hiểu về thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Và người đọc có thể tán thành hay không tán thành đánh giá đó. Nhưng trong phát ngôn “Chúng ta cần chống lại những tác phẩm “biểu tượng hai mặt”, hiểu cách nào cũng được”
của Trường Chinh phát biểu tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III, thì người nói ở đây ở vị trí có thẩm quyền, nên lời nói của ông gây ra những tác động đồng thời của một phát ngôn mang tính chỉ thị (prescription). Mỗi hình thức phát ngôn như vậy là ví dụ cho một trò chơi ngôn ngữ với những quy tắc và quy ước cơ bản. Nó làm cho giá trị hiệu lực của các phát ngôn khác nhau về chất.
Một trong những dẫn chứng tiêu biểu cho sự viện dẫn đại tự sự để khẳng định giá trị đồng thời bênh vực cho thơ Nôm Hồ Xuân Hương là luận
1 Như chúng tôi đã đề cập, từ “trò chơi” trong khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” không có ý về tính chất không nghiêm túc của việc sử dụng ngôn ngữ, mà liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong ngữ cảnh và trong hình thức cuộc sống theo các quy tắc, quy ước, như hình thức một trò chơi vận hành với các quy tắc, quy luật của nó.
điểm về “một dục vọng thể xác lành mạnh và khỏe khoắn” của Ăngghen được nhiều nhà phê bình sử dụng. Sự viện dẫn này được Nguyễn Lộc trình bày trong mục “Hồ Xuân Hương” của công trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX như sau:
“Ăngghen, nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hết lời ca ngợi Oéttơ
“nhà thơ đầu tiên của giai cấp vô sản Đức”, một nhà thơ mà ông cho là “trở thành bậc thầy” trong văn học Đức, chỉ thua Gớt [,] ở chỗ Oéttơ đã biểu hiện được “một dục vọng thể xác lành mạnh và khỏe khoắn”. Trái lại Ăngghen hết sức chế giễu Phơrâyligơrát và “cái tình cả thẹn giả dối của giai cấp tiểu tư sản”. Bởi vì theo ông nó “chỉ nhằm che đậy những sự dâm đãng kín đáo”.
Ăngghen viết: “Khi đọc thơ của Phơrâyligơrát chẳng hạn, thì người ta có thể tưởng rằng con người không có bộ phận sinh dục nữa. Ấy thế nhưng không ai thích những chuyện tiếu lâm kể một cách vụng trộm bằng Phơrâyligơrát, vốn là tác giả của những bài thơ hết sức cả thẹn”.
Chúng tôi nghĩ có thể gọi Xuân Hương là nhà thơ đã thể hiện được
“một dục vọng thể xác lành mạnh và khỏe khoắn” như cách Ăngghen nói về Oéttơ, chứ không thể coi bà như một nhà thơ dâm đãng được” [46; tr.286].
Trong đoạn phê bình trên, nhà phê bình đã dẫn ra những khái niệm quy ước làm tiêu chuẩn chính trị cho lập luận phê bình văn học: “nhà thơ đầu tiên của giai cấp vô sản Đức” đối lập lại với “cái tính cả thẹn giả dối của giai cấp tiểu tư sản” (chúng tôi nhấn mạnh). Đằng sau các trích dẫn này mặc định một quan niệm có tính chất chính trị xã hội, đó là tính ưu trội không chỉ về nội dung hay hình thức nghệ thuật, mà chủ yếu là tính ưu trội về mặt ý thức hệ của giai cấp vô sản so với giai cấp tiểu tư sản. Hơn nữa, nhận xét này lại viện dẫn câu nói của Engels, một bậc tiền bối khai sinh học thuyết chính trị xã hội của chủ nghĩa Marx. Vì vậy, sức mạnh quyền uy và tính hợp thức của nó là minh nhiên và không thể phủ nhận. Phần cuối đoạn trích dẫn, nhà phê
bình viện dẫn ý kiến đã được quy chiếu với đại tự sự quyền uy ấy vào làm cơ sở cho luận điểm đánh giá thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Mục đích chính yếu của sự viện dẫn đại tự sự này là bênh vực cho giá trị vốn có của hiện tượng thơ, trong một bối cảnh xã hội đặc thù. Do vậy, tính hợp thức của nó không nằm ở trò chơi ngôn ngữ mang tính khách quan của khoa phê bình văn học, mà nằm ở mục đích của người thiết lập nên văn bản phê bình.
Như vậy, bằng cách viện dẫn trực tiếp các đại tự sự đấu tranh giai cấp, phê bình văn học Mác-xít đã luôn quy chiếu nội dung thơ về viễn tượng lịch sử xã hội, để tuyệt đối hóa giá trị nội dung phê phán giai cấp trong thơ. Như trên đã nói, đó cũng là hình thức bênh vực cho hiện tượng thơ này trong một hoàn cảnh xã hội chính trị đặc thù. Tuy nhiên, hình thức tiêu biểu của sự viện dẫn đại tự sự trong trò chơi ngôn ngữ là sự chi phối và thể hiện quyền uy của nó trong các bước đi của phê bình.
Vào giai đoạn thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, trong các bài phê bình văn học bắt đầu xuất hiện tiêu chí đánh giá thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đặc biệt là đánh giá vấn đề hình ảnh thân thể và tính giao, từ góc độ “tính tư tưởng”. Khái niệm “tư tưởng” trong giai đoạn này, như đã phân tích, cho thấy có sự viện dẫn các quy ước và quy tắc của trò chơi ngôn ngữ chính trị vào trò chơi ngôn ngữ phê bình văn học. Khởi đầu là bài viết của Trần Thanh Mại mà chúng tôi sẽ phân tích sau, tiếp đến là phần viết về Hồ Xuân Hương của Lê Hoài Nam trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam mà chúng tôi đã đề cập, ngoài ra còn các bài báo riêng lẻ trực tiếp hay gián tiếp đều dùng khái niệm này soi chiếu vào hiện tượng trên. Nhưng tiêu biểu và có tác động nhiều nhất trong lịch sử tiếp nhận giai đoạn này là bài viết của Trần Thanh Mại: Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương, đăng trên Tạp chí Văn học, số 4. Đây là bài đầu tiên trong chuỗi những bài nghiên cứu phê bình đầy ảnh hưởng của ông về thơ Nôm nữ sĩ.
Bài viết Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương của Trần Thanh Mại nhìn ở góc độ này là một trò chơi ngôn ngữ phê bình; nhìn ở góc độ khác, nó là một bước đi trong một trò chơi ngôn ngữ tìm kiếm và phân loại thơ theo tiêu chí “tính xác thực của thơ Hồ Xuân Hương”; nhìn ở góc độ rộng hơn, đó đều là những bước đi của trò chơi ngôn ngữ phê bình trong hình thức cuộc sống lịch sử xã hội đặc thù của dân tộc bối cảnh 1945 – 1975; và cứ tiếp tục như vậy [49]. Điều đáng chú ý là trong một hình thức cuộc sống đặc thù như vậy, văn bản phê bình này cho thấy một sự đan xen phức tạp các quy ước và quy tắc của nhiều trò chơi ngôn ngữ khác chi phối các bước đi của trò chơi ngôn ngữ trong văn bản. Trần Thanh Mại “bàn lại vấn đề tục và dâm” trong thơ, nhưng còn nhằm thiết lập “vấn đề tính xác thực của thơ Hồ Xuân Hương”, vấn đề mà ông sẽ tiếp nối bằng các bài viết đăng trên Tạp chí Văn học những năm 1963, 1964; trong đó căn cứ vào văn bản Lưu Hương kí, ông tiến đến khẳng định “Hồ Xuân Hương còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán và là một nhà thơ nghiêm túc”, mở đầu cho một khuynh hướng thanh lọc thơ Hồ Xuân Hương. Đây là trò chơi ngôn ngữ phê bình đan xen trò chơi ngôn ngữ khảo chứng văn bản.
Nhưng nổi bật trong bài viết này là sự viện dẫn trò chơi ngôn ngữ chính trị vào trò chơi ngôn ngữ phê bình văn học. Bằng mục đích “thanh lọc”
thơ Hồ Xuân Hương, Trần Thanh Mại đã gạt đi cả những bài thơ thiên nhiên mà ông cho rằng không có “tính tư tưởng”, chỉ là những biểu hiện của bản năng xấu xa. Cần lưu ý đến những từ ngữ liên quan đến khái niệm “tư tưởng”
xuất hiện liên tục, trở đi trở lại như sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài viết của ông:
“tư tưởng” (của tác phẩm), “hành vi tư tưởng” (của sáng tác nghệ thuật),
“tính tư tưởng” (của nội dung tác phẩm), “mục đích yêu cầu tiến bộ” (của văn học), “quan điểm mỹ học tiền tiến”, “quan điểm đúng đắn” (trong nội dung của tác phẩm)… Những từ ngữ này khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp
gợi ra sự xâm lấn lẫn nhau giữa các quy tắc và quy ước của các trò chơi ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, sự viện dẫn này còn được ông kín đáo dùng làm điểm tựa để phê phán nội dung thơ.
Bình luận về một số bài thơ tả sự việc của Hồ Xuân Hương, ông viết:
“Còn nói làm sao đây về thái độ của nhà thơ đối với ý nghĩa của lao động, đối với công việc làm ăn của nhân dân, về thái độ biểu hiện trong hai bài Tát nước và Dệt cửi? Ở đây chúng ta sẽ không thấy nhà thơ ca tụng những gì là chân chính, cao cả, những gì là vất vả nhưng quang vinh để làm cho đồng ruộng tốt tươi, cho con người ấm áp. Ở đây, cũng như ở khá nhiều trường hợp khác, những động tác thanh cao, đầy sáng tạo của con người lao động đã trở thành những động tác của một việc có tính chất thú tính. Đây gần như là một sự xuyên tạc và một sự báng bổ.
Mở đầu bài Tát nước là câu thơ mang hai chữ có ý nói lái:
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè…
Rồi đến việc chứng kiến hàng sãi hình ảnh kỳ dị như:
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa, Rồi lại:
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve…” [49].
Đoạn bình luận trên sẽ chỉ xuất hiện như một lời phê phán bình thường từ góc độ của một nhà phê bình đạo đức nếu đối tượng của nó không phải là hình ảnh của người lao động. Ta thấy ẩn giấu kín đáo trong lời phê phán trên là chữ “quang vinh” dành cho hình ảnh người lao động. Chữ này xuất hiện trong văn bản phê bình một cách khiên cưỡng, cố ý. Nhà phê bình đã viện dẫn một chữ ngoài phạm vi đánh giá văn học làm điểm quy chiếu. Đỗ Lai Thúy đã nhạy bén phát hiện ra ý này: “Rõ ràng, nhà nghiên cứu đã suy diễn để chứng minh cho bằng được quan điểm “lao động là vinh quang”, nên ông đã nói những gì mà bài thơ không có” [72; tr.34]. Thực ra không phải ông
chứng minh quan điểm “lao động là vinh quang”. Vì đây đã là tiên đề có sẵn thể hiện quan niệm đánh giá phổ biến trong bối cảnh xã hội chính trị thời bấy giờ về nhiệm vụ của giai cấp nông dân, một giai cấp đóng vai trò chủ yếu trong cuộc cách mạng. Tiên đề này gắn liền với đại tự sự về giải phóng lao động, một đại tự sự phổ biến và thiêng liêng. Trần Thanh Mại không chứng minh lại nó, mà viện dẫn nó để làm cơ sở phê phán nội dung câu thơ là không có “tính tư tưởng”. Khái niệm “tư tưởng” xét như một tiêu chuẩn nội dung văn học ở đây được hiểu ở hai mặt: tác phẩm ấy phải vừa đứng về phía giai cấp cần lao, vừa chống lại chế độ phong kiến. Nhìn chung nội dung thơ có mặt thứ hai, nhưng một số bài thơ lại không có mặt thứ nhất. Đây là một lời phê phán nghiêm trọng, tuy chỉ dành cho một số bài thơ hay câu thơ riêng lẻ của Hồ Xuân Hương.
Trò chơi ngôn ngữ chính trị trong bài phê bình này còn được thể hiện trong một biểu hiện nhỏ, nhưng có vai trò quan trọng như một bước đi xâu chuỗi tất cả các bước đi trước và sau nó, làm hiện ra ngữ pháp của trò chơi ngôn ngữ xuyên thấm trong văn bản. Trong bài phê bình, Trần Thanh Mại đã bỏ qua quan niệm đấu tranh giai cấp mà Nguyễn Văn Hanh vận dụng trong quyển sách Hồ Xuân Hương. Tác phẩm. Thân thế và văn tài [24; tr.142], mà chỉ nhấn mạnh vào cái mà ông cho là “dụng tâm” và “âm mưu” của Nguyễn Văn Hanh khi vận dụng quan điểm Freud: “Âm mưu của y là muốn nói rằng lịch sử xã hội loài người không phải do đấu tranh giai cấp cấu thành, mà vận mệnh con người nói chung, kẻ giàu cũng như người nghèo, kẻ áp bức bóc lột cũng như người bị áp bức bóc lột đều do mỗi một cái “li-bi-đô” (bản năng dâm dục) chi phối tất. Chỉ cần nhắc rằng việc Nguyễn Văn Hanh đưa học thuyết nguy hiểm này ra giữa lúc trong nước ta đang có cao trào đấu tranh dân chủ do Đảng ta lãnh đạo, việc ấy ắt không phải là một việc tình cờ”.