Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ QUAN HỆ GIỮA CHÚNG
1.2. Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
1.2.1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
Tuy nhiên kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm giản đơn, thụ động của các cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành của nó cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các yếu tố nhà nước và các đảng phái chính trị. Sự tác động trở lại là tích cực khi nó cùng chiều với các quy luật kinh tế - chính trị, là tiêu cực khi nó tác động ngược chiều và gây trở ngại cho sự phát triển của sản xuất và xã hội.
Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ xuyên suốt lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp; nó quy định sự vận động, biến đổi của các xã hội đó. Sự thay đổi đó có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn tính sự thay đổi trong quan hệ sản xuất và toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội. C. Mác nhấn mạnh “Trong sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở trên đó dựng nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [25, tr.14-15]. Như vậy, trong hệ thống các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất là bộ phận cấu thành quan trọng nhất. Với tư cách là cơ sở kinh tế, quan hệ sản xuất có ảnh hưởng quyết định tới sự biến đổi của chính trị, cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn và khi xét cuộc đảo lộn ấy, cũng cần phân biệt đảo lộn vật chất - mà người ta có thể xác nhận với một sự chính xác của khoa học tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản xuất... với những đảo lộn trong tư tưởng con người về những đảo lộn vật chất ấy.
Kinh tế và chính trị tác động qua lại với nhau. Một mặt, chính trị phụ thuộc vào kinh tế, sự chuyển biến về chế độ sở hữu gắn liền với sự chuyển biến về chế độ chính trị, “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại” [19, tr.47].
Kinh tế mạnh mới đảm bảo cho nền chính trị ổn định và ngược lại chính trị ổn định sẽ tác động trở lại kinh tế và có “địa vị hàng đầu” do tính giai cấp, tính đảng của các hoạt động kinh tế trong các chế độ xã hội có giai cấp. Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn thể hiện ở chỗ chúng có thể phù hợp/không phù hợp nhau. Nếu phù hợp, quan hệ giữa chúng sẽ tạo nên sự ổn định và phát triển của xã hội; nếu không phù hợp, chúng sẽ tạo ra sự bất ổn, sự trì trệ, thậm chí là rối loạn xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin không tuyệt đối
hoá và không nhấn mạnh hoặc đề cao quá mức một trong hai yếu tố của quan hệ mang tính biện chứng sâu sắc này. Bởi nếu đề cao vai trò của nhà nước nói riêng, kiến trức thượng tầng nói chung và phủ nhận hoặc xem xét nhẹ tác động quyết định của những quy luật kinh tế khách quan, phủ nhận tính tất yếu của vận động xã hội thì sẽ rơi vào duy tâm, chủ quan duy ý chí, ngược lại nếu chỉ đề cao, nhấn mạnh đến vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thì sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, phiến diện.
Trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế giữ vai trò quyết định với chính trị; vai trò của cơ sở kinh tế, nguyên nhân điều kiện và các quan hệ kinh tế giữ vai trò quyết định đối với các hiện tượng chính trị thể hiện ở những mặt sau:
Kinh tế là cơ sở của chính trị. Sự hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng chính trị đều dựa trên một hệ thống lợi ích kinh tế. Các hiện tượng chính trị đó, như Lênin đã chỉ ra đó là sự biểu hiện tập trung của kinh tế.
Những biến đổi lớn trong các quan hệ chính trị thường xuất phát từ nguyên nhân kinh tế, sự thay đổi trong cơ sở kinh tế tất yếu đòi hỏi những thay đổi tương ứng trong quan hệ chính trị. Các hiện tượng chính trị trở thành tất yếu khi đã hội tụ đủ các điều kiện về kinh tế; nếu không các hiện tượng chính trị chỉ có tính tạm thời, không chắc chắn và nhiều khi trở thành chướng ngại vật đối với sự phát triển của xã hội. Với tư cách là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, chính trị là nhóm quan hệ xã hội phụ thuộc vào kinh tế.
Sự phụ thuộc của chính trị vào kinh tế biểu hiện ở những mặt sau:
Quan hệ chính trị chỉ xuất hiện khi có những điều kiện kinh tế tương ứng, Sự phân chia xã hội thành giai cấp chỉ xuất hiện khi sản xuất đã tạo ra lượng sản phẩm thặng dư nhất định - cơ sở để thay đổi hình thức xã hội của sản xuất. Đồng thời, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của từng giai cấp cũng chỉ diễn ra khi có các điều kiện kinh tế tương ứng. “Giai cấp tư sản cũng như giai
cấp vô sản đều hình thành từ một sự thay đổi của những điều kiện kinh tế...
Chính bước quá độ trước hết từ thủ công nghiệp phường hội lên công trường thủ công nghiệp, rồi từ công trường thủ công nghiệp lên đại công nghiệp... đã phát triển hai giai cấp ấy” [28, tr.439-440].
Với tư cách là một hiện tượng chính trị tiêu biểu, Nhà nước cũng chỉ ra đời và tiêu vong trong những điều kiện kinh tế nhất định. Trong quan hệ với kinh tế, chính trị chỉ có tính độc lập tương đối, thể hiện thông qua sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế “Tất cả các Chính phủ ngay cả những Chính phủ chuyên chế nhất... có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm sự phát triển của kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế ấy, song rút cục họ vẫn phải tuân theo sự phát triển ấy” [33, tr.488].
Chính trị phụ thuộc vào kinh tế còn được thể hiện trong mức độ hiệu quả của các biện pháp chính trị. “Trong một nước tiểu nông... trao đổi... sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa... tìm cách ngăn cấm triệt để chặn đứng mọi sự trao đổi tư nhân... tức là của chủ nghĩa tư bản một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế nhất định sẽ bị phá sản” [22, tr.266-267].
Quan hệ giữa hình thức sở hữu và thế giới quan chính trị. Sở hữu, với tư cách là cơ sở của quan hệ kinh tế, bao hàm và chi phối không những địa vị của các giai cấp tầng lớp xã hội trong nền sản xuất xã hội, mà còn bao hàm và chi phối cả hệ thống các lợi ích kinh tế thể hiện địa vị đó, có vai trò quyết định tới sự hình thành, vận động của thế giới quan chính trị.
Vai trò quyết định đó thông qua các điểm sau:
Thế giới quan chính trị là thế giới quan của giai cấp nhất định, mọi giai cấp đều xuất hiện và phát triển dựa trên những điều kiện kinh tế nhất định, cho nên thế giới quan chính trị luôn phản ánh nguyện vọng của giai cấp mà nó đại diện nhằm mục tiêu đảm bảo lợi ích đó. Sự quy định của kinh tế đối với thế giới quan chính trị được thể hiện thông qua sự hình thành và vận động của những hình thức nhất định của sở hữu đều được hiện thân bằng một giai cấp nhất định trong xã hội. Mọi giai cấp đều nhằm bảo tồn, củng cố và phát triển hình thức sở hữu mà nó đại diện.
Tính khoa học của thế giới quan chính trị thường phụ thuộc vào mức độ phát triển của hình thức sở hữu và sự phù hợp của hình thức sở hữu đó với những yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Khi xem xét quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng thấy được vai trò tích cực của chính trị với kinh tế; biểu hiện tập trung ở những điểm cơ bản sau:
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, kiến trúc thượng tầng, một mặt được quyết định bởi cơ sở hạ tầng, nhưng mặt khác lại có vị trí độc lập tương đối. Hơn nữa, kiến trúc thượng tầng không đơn giản là sản phẩm thụ động hay là cái bóng của cơ sở hạ tầng nên kiến trúc thượng tầng có khả năng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, cụ thể là đối với các cơ cấu kinh tế của xã hội mà nó dựa vào, vì vậy mà V.I.Lênin cho rằng “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” đồng thời để nhấn mạnh tính quan trọng của chính trị đối với kinh tế.
V.I.Lênin khẳng định “chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu đối với kinh tế” [27, tr.47-48].
Trong thực tiễn phát triển của đời sống xã hội, các thành tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp luật, tôn giáo, triết học, khoa học... đều có tác động mạnh đối với cơ sở hạ tầng. Mỗi thành tố có sự tác động ảnh
hưởng ở mức độ khác nhau, trong đó Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có hai mặt.
Mặt thứ nhất, nếu kiến trúc thượng tầng nói chung và Nhà nước nói riêng, có tác động cùng chiều với sự vận động và phát triển của các quy luật kinh tế khách quan thì nó sẽ làm thúc đẩy nhanh sự phát triển của kết cấu kinh tế - xã hội. Mặt thứ hai, nếu kiến trúc thượng tầng nói chung, Nhà nước nói riêng có tác động ngược chiều với các quy luật kinh tế khách quan thì nó sẽ có tác động tiêu cực. Trong trường hợp này, kiến trúc thượng tầng sẽ trở thành lực cản kìm hãm và gây tác hại đến sự phát triển của kinh tế, ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội, “tác động ngược của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kịnh tế - khi ấy thì nó sẽ làm tan vỡ cả dân tộc lớn sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc sẽ dẫn đến hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây tác hại rất lớn cho sự phát triển của kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực và vật chất” [32, tr.678].
Trong khi nghiên cứu sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã chỉ ra vai trò to lớn của đảng chính trị đối với đời sống xã hội. Khi phân tích, nhận xét, đánh giá về hệ quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, các nhà kinh điển đưa ra kết luận: trong cuộc đấu tranh giai cấp, nhất định sẽ dẫn đến hình thành đảng chính trị và đảng chính trị đó sẽ đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.
Đối với đảng cách mạng thì vai trò thúc đẩy xã hội tiến lên là vô cùng to lớn vì nó nắm được quyền lực chính trị và thông qua giai cấp thống trị
trong xã hội để thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội; giai cấp nào giành được quyền lực chính trị sẽ trở thành giai cấp thống trị về chính trị đối với xã hội.
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác khẳng định “Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung như trong trường hợp của giai cấp vô sản - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu” [24, tr.48].
Đảng chính trị là tổ chức có mục đích chính trị rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, tập hợp, lôi cuốn quần chúng cùng hành động chung để đạt mục đích đã đề ra. Dưới chế độ chính trị - xã hội nào, đảng cầm quyền bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của đất nước. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng, trong nhận thức và giải quyết quan hệ giữa chính trị và kinh tế, phải chú ý tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Yêu cầu cơ bản, nền tảng trước hết mà đảng chính trị cầm quyền phải tính tới là quan hệ và sự tác động của chính trị đối với kinh tế, phải vì mục tiêu phát triển sức sản xuất và phát triển xã hội, phải tạo ra những điều kiện vật chất của một xã hội mới.
Vai trò định hướng của đảng cộng sản đối với sự phát triển xã hội được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao. Sở dĩ đảng của giai cấp vô sản có được vai trò đó là do:
Đảng của giai cấp vô sản là đảng mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng sự ra đời của đảng chính trị độc lập của giai cấp công nhân là một yêu cầu khách quan khi giai cấp công nhân đã trưởng thành trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và nhất là trong qua trình đấu tranh chính trị chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và tính chất đấu tranh của nó là đi đến xoá bỏ xã hội có giai cấp, người bóc lột người. Đây là đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị mà thực chất là lãnh đạo sự nghiệp giải phóng kinh tế. Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế do C.Mác
soạn thảo có đoạn viết “Việc giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng đều phải phục tùng với tư cách là một thủ đoạn” [33, tr.441]. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị “Trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân phong trào kinh tế của nó là hành động chính trị của nó và hành động chính trị gắn liền với nhau khăng khít không gì chia cắt được” [25, tr.559].
Đảng của giai cấp vô sản là đảng được tôi luyện thử thách trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng hoà bình, do đó đã có được bản lĩnh kiên cường và có kinh nghiệm về tổ chức, quản lý, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, khi xem xét quan hệ giữa kinh tế và chính trị, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin không quan niệm đó là quan hệ một chiều, trái lại các ông nhấn mạnh rằng chỉ khi xét đến cùng, kinh tế mới quyết định chính trị. Còn trong thực tiễn thì hai nhân tố này luôn tác động qua lại với nhau và sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế cũng vô cùng quan trọng.
C.Mác quan niệm, bạo lực chính trị là một tiềm lực kinh tế, vì vậy trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước) là mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm, muốn chi phối. Tác động của chính trị đối với kinh tế còn thể hiện ở sự tác động của quyền lực chính trị đối với kinh tế “Sự vận động kinh tế chịu ảnh hưởng một bên là của sự vận động của quyền lực nhà nước còn một bên là của lực lượng đối lập sinh ra đồng thời với quyền lực ấy” [26, tr.678].
Khái quát lý luận về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin như vậy đã làm sáng tỏ thêm thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị bằng hai luận điểm cơ bản: Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.