Đẩy mạnh đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Một phần của tài liệu Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam hiện nay (Trang 60 - 75)

Chương 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2. Thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt

2.2.2. Đẩy mạnh đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trên các phương diện: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đại hội đã xác định 4 tiêu chí lớn của định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta và tiếp tục chủ trương: Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Theo đó, có 5 loại thị trường

cơ bản được xác định là thị trường hàng hóa và dịch vụ; sức lao động; khoa học và công nghệ; bất động sản và thị trường tài chính. Sự phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả cả 5 loại thị trường cơ bản ấy là nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhanh, chậm và quy mô có khác nhau, nhưng các loại thị trường ở Việt Nam đều chủ yếu được hình thành và phát triển trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế hàng hóa bao gồm nhiều thành phần và nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy thời gian phát triển chưa nhiều, nhất là so với những nước phát triển có nền kinh tế thị trường đã tồn tại hàng trăm năm, nhưng về cơ bản thể chế kinh tế thị trường ở nước ta đã được hình thành ngày một rõ nét hơn.

Tư duy lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được thực tiễn khẳng định là đúng đắn và từng bước đi vào cuộc sống. Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, các thị trường chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về tính định hướng XHCN đối với kinh tế thị trường còn chưa sáng tỏ. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi và đổi mới tư duy trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Thực tiễn cho thấy, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý thuyết vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của cơ chế kinh tế, nhiều khi, chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường cũng như của định hướng XHCN. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc biệt về cấu trúc, quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, vẫn chậm làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ giữa hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng XHCN, về sự

kết hợp chúng một cách hữu cơ để tạo thành một phương thức mới giải quyết các vấn đề phát triển của Việt Nam.

Nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm so với thực tiễn phát triển. Nhiều vấn đề đặt ra còn chưa được giải quyết, tổng kết kịp thời. Do vậy, trong công tác chỉ đạo còn thiếu nhất quán, lúc mở ra lúc co lại, lúc thiên bên này, lúc lại lệch bên khác, làm chậm quá trình phát triển chung của nền kinh tế.

Mối quan hệ trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ" chưa được giải quyết hiệu quả trên thực tế, làm giảm hiệu lực quản lý kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, nhất là về mặt lợi ích kinh tế, chưa được xử lý phù hợp, chưa phát huy được tính năng động của Nhà nước cũng như vai trò thúc đẩy của thị trường, đặc biệt là vai trò lực lượng xung kích của doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế, ngay cả khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức WTO.

Hiệu lực quản lý Nhà nước còn hạn chế, nhất là trong điều hành nền kinh tế còn nặng tính hành chính; phân định chức năng chưa rõ ràng. Một mặt, có xu hướng buông lỏng chức năng của Nhà nước trong điều tiết kinh tế thị trường, mặt khác, lại duy trì quá lâu sự độc quyền trong một số lĩnh vực (nhiều trường hợp độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp).

Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh ở Việt Nam được cải thiện đáng kể trong thời gian qua. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, năm 2007 môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 13 bậc so với năm 2006 (xếp thứ 91/187 nước). Nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập, chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp vẫn thuộc loại cao so với các nước khác trong khu vực. Xét về tổng thể, theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong mấy năm qua bị giảm sút liên tục.

Tăng trưởng kinh tế tuy cao, nhưng vẫn chủ yếu là tăng về lượng, còn chất lượng tăng trưởng chưa cao, khoảng cách phát triển của Việt Nam so với các nước trong khu vực chưa được rút ngắn, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm chậm được cải thiện, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Những đặc trưng của kinh tế thị trường như tự do hóa giá cả, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bỏ dần hàng rào bảo hộ đối với doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước còn chậm được tiến hành trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO.

Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, được xác định là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, song còn nhiều doanh nghiệp chưa chủ động vươn lên, đổi mới công nghệ, quản lý, nâng cao sức cạnh tranh để đứng vững trong cạnh tranh hội nhập.

Cải cách thể chế còn chậm, nhất là thủ tục hành chính, các thị trường như thị trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ, thị trường khoa học, công nghệ... chậm phát triển. Hạn chế này đã tạo ra tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, gây bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh thương mại quốc tế.

Các công cụ quản lý nhà nước như quy hoạch, kế hoạch chưa phát huy được vai trò tích cực, dẫn đến trong điều hành vĩ mô chưa hạn chế được nhiều mặt trái của kinh tế thị trường.

Cơ chế thị trường hoạt động kém hiệu quả, quá trình tự do hóa kinh tế diễn ra chậm chạp, một phần do sự chi phối quá mức của Nhà nước vào quá trình sản xuất - kinh doanh, mặt khác do duy trì quá lâu quan hệ kinh tế phi thị trường giữa Nhà nước và doanh nghiệp, các nguyên tắc thị trường bị vi phạm.

Từ thực trạng nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta và sự thích ứng quá chậm của hệ thống chính trị, đòi hỏi cần đẩy mạnh hơn nũa việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trên các phương diện sau:

- Nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống chính trị phải thể chế hoá mọi quan hệ kinh tế - xã hội. Nhà nước phải là nhà nước pháp quyền, quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh tế, xã hội theo hiến pháp và pháp luật. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ nhằm tạo ra hành lang pháp lý tốt nhất cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội, bảo đảm không gây ách tắc mà vẫn có kỷ cương và hiệu quả.

- Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ một nền kinh tế khép kín sang một nền kinh tế mở và ngày càng chủ động hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều đó đòi hỏi hệ thống chính trị phải thực sự năng động, cởi mở, nhạy bén để có thể thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước, tạo điều kiện tốt nhất cho nền kinh tế đất nước hoà nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế mở cũng đòi hỏi hệ thống chính trị phải có đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, năng động, có tầm nhìn xa trông rộng, có tri thức mọi mặt để có thể đáp ứng được nhiệm vụ ngày càng nặng nề mà thực tiễn đất nước đang đòi hỏi.

- Chúng ta đã chuyển nền kinh tế từ chế độ công hữu với hai thành phần chủ yếu là kinh tế quốc doanh và tập thể sang đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế tư nhân ngày càng được tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng nhiều vào nền kinh tế quốc dân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hoá nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Điều này dẫn tới việc các tổ chức trong hệ thống chính trị phải tự đổi mới để thích ứng với sự đa dạng về chế độ sở hữu, đa dạng về cơ cấu kinh tế

của xã hội. Cả hệ thống chính trị phải được tổ chức và vận hành theo hướng dân chủ, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh kinh tế giữa các thành phần kinh tế - Việc quản lý một xã hội đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá khác xa việc quản lý một xã hội nông nghiệp, nông dân thuần tuý. Vì vậy, cả hệ thống chính trị phải được đổi mới cả về tổ chức, phương thức vận hành, chất lượng cán bộ và tác phong lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới.

- Xuất phát từ một nền kinh tế phát triển mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng miền, chúng ta đã coi trọng phát triển đồng đều, quan tâm khai thác tiềm năng, lợi thế của mọi vùng miền trong cả nước. Từ đó đặt ra vấn đề phải củng cố hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

- Chúng ta cần chuyển từ chế độ phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa sang áp dụng phổ biến hình thức phân phối theo lao động và theo vốn đóng góp, kết hợp với phân phối theo phúc lợi chung, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong từng bước từng chính sách phát triển.

Sự phát triển mạnh mẽ, năng động của kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống chính trị phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện, xem đổi mới là quá trình thường xuyên, liên tục đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, để đảm bảo hệ thống chính trị không những luôn luôn phù hợp với các bước phát triển của kinh tế mà phải luôn ở thế chủ động trong các quan hệ kinh tế, thật sự có năng lực hướng dẫn được kinh tế theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành của Nhà nước trong kinh tế, là điều kiện tiên quyết để hệ thống chính trị đóng vai trò là nhân tố tác động tích cực đến kinh tế.

2.2.3. Thành tựu và hạn chế trong quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay

Trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, đã xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ phức tạp, đòi hỏi phải được xử lý một cách phù hợp với quy luật khách quan và tình hình, đặc điểm cụ thể của đất nước. Trên phương diện chung, có thể nêu tám mối quan hệ chủ yếu là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị;

quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nhờ nhận thức kịp thời và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ này, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời, góp phần vào bảo vệ và phát triển CNXH cả về lý luận và thực tiễn. Trong những năm tới, triển vọng đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và triển vọng quá độ lên CNXH của nước ta tuỳ thuộc rất nhiều vào hiệu quả xử lý các mối quan hệ nêu trên.

Nhìn lại 5 năm đổi mới đầu tiên (1986-1991), Đại hội VII đúc rút “Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác” [9, tr.53]. Sau 20 năm, Đại hội X (2006) đúc kết “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ

thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp;

bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội” [12, tr.83].

Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng, Nhà nước đã xử lý thành công mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trên ba vấn đề then chốt. Một là, đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và dân tộc. Hai là, đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với chế độ chính trị XHCN.

Ba là, đã xác lập hệ thống chính trị với mô hình, cơ cấu và cơ chế hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và dân chủ XHCN.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đã tiến hành được 25 năm. Những thành tựu to lớn của đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với hôm nay mà cả với ngày mai. Đời sống xã hội đang thay đổi khá nhanh chóng trên trên tất cả các phương diện và các lĩnh vực khác nhau. Nhưng, nhìn chung, công cuộc đổi mới đang như một công trường xây dựng chưa hoàn thành, còn ngổn ngang công việc. Có những việc đã làm xong, nhiều việc đang làm dở, nhiều việc khác cần phải làm, nhưng lại chưa làm được. Nếu đặt đổi mới trong tổng thể quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì những việc đã, đang và sẽ phải làm cần được đánh giá ở tầm chiến lược một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Tính bề bộn, dang dở, trình tự các việc phải làm và tầm cỡ của mỗi việc sẽ được nhìn nhận lại một cách đầy đủ, khách quan, khoa học hơn. Từ đó có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm thực sự bổ ích và thiết thực hơn.

Trên cơ sở đổi mới quan điểm, đổi mới đường lối chung về phương thức phát triển tại Đại hội VI, hàng loạt chính sách, biện pháp cụ thể đã được Đảng xây dựng ban hành nhằm thực hiện phương thức phát triển mới. Trên cơ sở đó, đổi mới kinh tế từng bước được thực hiện trong thực tế. Những chuyển

Một phần của tài liệu Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam hiện nay (Trang 60 - 75)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(119 trang)