Chương 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2. Thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
2.2.1. Đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị
Đại hội VI đánh dấu bước quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Đại hội nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế;
lấy đó làm bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng, tạo tiền đề lý luận cho việc triển khai đồng bộ và nhất quán các giải pháp cải cách kinh tế; giải phóng lực lượng sản xuất trên cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và làm rõ nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội với nguyên tắc tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển.
Kể từ đó, Việt Nam dần đổi mới toàn diện, tương đối đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Đổi mới được tiến hành từ đổi mới tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế đến tất cả các lĩnh vực của đời sống nhưng không đồng loạt, dàn đều, mà có trọng tâm, trọng điểm, theo lộ trình, bảo đảm sự gắn kết và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá là nền tảng.
Đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới, Đảng ta chủ trương đổi mới kinh tế đi trước một bước, từng bước đổi mới hệ thống chính trị nhằm giữ vững ổn định chính trị, tập trung mọi nguồn lực phấn đấu đưa đất nước vượt qua khủng hoảng để phát triển.
Thành tựu 25 năm đổi mới đất nước đã xác nhận tính đúng đắn đường lối đó của Đảng. Việc không đồng thời đổi mới cả kinh tế và chính trị là giải pháp có tính chiến lược, phù hợp với tình hình lịch sử của cách mạng nước ta trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Với việc giữ vững ổn định, có bước đi
quan trọng đối với thành công của công cuộc đổi mới kinh tế. Một mặt, nền chính trị Việt Nam đã tạo nên môi trường chính trị ổn định, bảo đảm các điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp đổi mới và phát triển kinh tế. Mặt khác, đổi mới về tư duy chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế chính trị để vừa bảo đảm ổn định chính trị, vừa từng bước thích ứng với tính chất và mức độ đổi mới và phát triển kinh tế.
Đại hội VI của Đảng với đường lối “đổi mới” đã tạo ra các tiền đề quan trọng cho các cải biến đời sống kinh tế, xã hội, từng bước xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế, có sự quản lý của nhà nước (sau này gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN). Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế đã làm thay đổi cơ bản các cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội của tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản. Nội dung của chuyên chính vô sản, hình thức tổ chức của chuyên chính vô sản đòi hỏi phải được đổi mới để phù hợp với tính chất của “hạ tầng kinh tế”. Điều này có nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản cần phải có một sự “biểu đạt” mới, tạo tiền đề để đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống này trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới của đất nước và bối cảnh mới của thời đại.
Đại hội X khẳng định “phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn” [12, tr.24]. Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm.
Những thành tựu của đổi mới kinh tế trong hơn 20 năm qua là điều kiện vật chất để đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006-2010, Đại hội khẳng định “Phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [12, tr.26] và đánh giá năm năm 2006-2010 có
ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX đề ra.
Từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Những nghiên cứu, tổng kết quá trình xây dựng và phát triển nền chính trị XHCN ở Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay cho thấy, ứng với mỗi mô hình kinh tế - xã hội, các mục tiêu và nhiệm vụ lịch sử của mỗi giai đoạn là một hình thức tổ chức chính trị và dân chủ tương thích. Ứng với mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung với các nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, Việt Nam đã xây dựng và vận hành hệ thống chuyên chính vô sản với việc thực hiện hai chức năng cơ bản là trấn áp sự chống đối của các lực lượng, thế lực thù địch trong cải tạo XHCN và tổ chức thực hành nền dân chủ mới của khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân để xây dựng xã hội XHCN.
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chuyên chính vô sản và sự cần thiết phải thực hiện chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong Văn kiện Đảng Lao động Việt Nam 1960 ở trang 11 và 79, Đảng ta cho rằng "Muốn đạt được mục tiêu cách mạng, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản". "Chính quyền dân chủ nhân dân là công cụ đắc lực để thực hiện những nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH ở miền Bắc, đồng thời để đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên cơ sở liên minh công nông và được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân phải thực hành chuyên chính vô sản với bọn phản cách mạng, nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng XHCN và công cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà".
Đến Đại hội IV (1976), Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối chung của cách mạng XHCN trong giai đoạn mới của nước ta là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, tư tưởng và văn hoá. Phạm trù chuyên chính vô sản và hệ thống chuyên chính vô sản tiếp tục được khẳng định trong các Văn kiện Đại hội V, VI của Đảng "Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và hậu phương ngày càng vững mạnh” [7, tr.26].
Trước đổi mới, chuyên chính vô sản được coi là tiền đề cơ bản để thực hiện các mục tiêu cải biến xã hội về chính trị, kinh tế, xã hội và hệ thống chuyên chính vô sản là công cụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu có tính cách mạng này. Trong suốt thời kỳ cải tạo XHCN, xây dựng và thực thi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ… hoạt động nhằm thực hiện các nhiệm vụ của chuyên chính vô sản. Thực tế lịch sử cho thấy, chuyên chính vô sản và hệ thống chuyên chính vô sản đóng vai trò quan trọng trong các thành tựu phát triển to lớn ở Liên xô và các nước XHCN trước đây, cũng như ở Việt Nam trong mấy chục năm trước đổi mới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử cũng chứng tỏ rằng, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp - cơ sở kinh tế của chuyên chính vô sản và hệ thống chuyên chính vô sản - đã không còn đủ khả năng giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong sự phát triển của xã hội và tỏ ra kém sức sống trong điều kiện thế giới liên tục thay đổi.
Việc dùng thuật ngữ “hệ thống chính trị” không chỉ đơn giản là sự thay đổi tên gọi như một thủ pháp chính trị, mà còn hàm chứa những ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Sự đổi mới tư duy chính trị trong quá trình đổi mới đất nước không chỉ được đánh dấu bởi những nhận thức và quan điểm đổi mới từ hệ thống chuyên chính vô sản sang hệ thống chính trị mà còn được
khẳng định bởi sự đổi mới tư duy từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Đại hội VI (1986) của Đảng cùng với đổi mới tư duy kinh tế, bước đầu tiên của tư duy đổi mới cũng đã được thể hiện bằng việc xác định trong thời kỳ quá độ, Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ XHCN. Bước đổi mới đầu tiên về Nhà nước tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh chính trị năm 1991 của Đảng với quan điểm quan trọng “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó” [8, tr.55]. Bước ngoặt quan trọng trong đổi mới tư duy về Nhà nước được đánh dấu bởi Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994), lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [9, tr.54]. Đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta tiếp tục làm sáng tỏ thêm quan điểm về nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. Đại hội IX (2001) của Đảng trở lại vấn đề nhà nước pháp quyền XHCN và khẳng định “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [10, tr.14]. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Cùng với sự đổi mới nhận thức và tư duy về Nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng ta cũng đã có nhiều chủ trương về đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế - xã hội.
Cương lĩnh 1991 xác định “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
[8, tr.12]; phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất trong sạch.
Nhìn chung, quan điểm về đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường sức chiến đấu và năng lực cầm quyền của Đảng luôn là tư tưởng xuyên suốt các kỳ Đại hội của Đảng, từ Đại hội VI đến Đại hội IX và tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X, Dự thảo Văn kiện Đại hội XI của Đảng.
Thực trạng nhiệm vụ đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị từ 1986 đến nay. Sau 25 năm đổi mới, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam đã có những thành tựu đáng ghi nhận trên ba vấn đề then chốt. Đó là đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và dân tộc. Hai là, đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với chế độ chính trị XHCN và ba là, đã xác lập hệ thống chính trị với mô hình, cơ cấu và cơ chế hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và dân chủ XHCN.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, yếu kém trong quá trình nhận thức và xử lý mối quan hệ quan trọng đó trong quá trình hình thành và hoàn thiện mô hình kinh tế và mô hình hệ thống chính trị. Cụ thể là chưa xác định rõ và tạo được sự thống nhất cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường chậm được tăng cường. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu ổn định, chồng chéo. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể tăng trưởng chậm, hiệu quả thấp, tỷ trọng ngày càng giảm đi trong tổng sản phẩm
nội địa. Việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trên nhiều lĩnh vực đạt kết quả thấp so với yêu cầu, tạo nên bức xúc xã hội ở một số lĩnh vực. Hệ thống chính trị chưa có nhiều đổi mới đột phá, chưa theo kịp những chuyển động kinh tế - xã hội trong nước, chất lượng, hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế, nhất là trong kiểm soát quyền lực và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Tình trạng quan liêu, xa rời thực tiễn, xa dân, tham ô, nhũng nhiễu của bộ máy quyền lực vẫn còn nghiêm trọng. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và sự đồng thuận xã hội trước không ít chủ trương, quyết sách lớn có dấu hiệu giảm sút đáng lo ngại...
Do đó, khi các cải cách kinh tế chuyển từ lượng sang chất, nền kinh tế chuyển sang giai đoạn kết thúc thời kỳ chuyển đổi, tăng trưởng, thật sự bước vào nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của kinh tế toàn cầu, thì bài toán về “sự phù hợp giữa kinh tế và chính trị” lại được đặt ra đối với đất nước ta, và việc giải quyết nó đang là điều kiện của sự phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ XXI.