Chương 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và quan hệ giữa chúng
2.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị
2.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị
Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là biểu hiện của quan hệ giữa hai lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội; liên quan đến quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa cái khách quan và cái chủ quan; giữa cái tất yếu và cái có thể...
Tình hình hiện nay ở Việt Nam cho phép khẳng định, tuy không hoàn toàn giống như hai mươi lăm năm trước đây, nhưng đổi mới kinh tế vẫn cần phải đồng hành, đồng bộ với đổi mới chính trị. Bối cảnh quốc tế cũng như những đòi hỏi nội tại của xã hội đang yêu cầu phải xem đổi mới chính trị là một trong những trọng tâm quan trọng để thúc đẩy đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được chú trọng và nhấn mạnh hơn để tạo ra những bước đột phá mới, căn bản. Hơn nữa, đó phải là những đổi mới có tính căn bản, đột phá để tạo nên bước phát triển nhảy vọt, nhưng vững chắc. Nếu không có những bước đột phá trong đổi mới, Việt Nam vẫn có thể phát triển đều và ổn định, nhưng sẽ không rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và quốc tế được. Điều này đã được các nhà lãnh đạo và các học giả, quần chúng nhân dân nhận thức rõ và đây cũng sẽ là lực lượng và động lực quan trọng cho giai đoạn đổi mới tiếp theo.
Đó là những nhận định chung, có tính khái quát, bao trùm về những nét chung và chính yếu nhất về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của
chính trị trong những nét chi tiết đang diễn biến rất đa dạng và đa chiều cả trong nhận thức lẫn trong hiện thực [14, tr.21].
Quan điểm cơ bản về đổi mới kinh tế ở nước ta là quan điểm chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quá trình chuyển dịch này bao gồm hàng loạt thay đổi sâu rộng trong quan điểm rồi trên thực tiễn về cơ cấu thành phần kinh tế, chế độ và hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý kinh tế. Mặc dù mang định hướng XHCN, nhưng nền kinh tế nước ta vẫn phải thể hiện đầy đủ bản chất và những đặc trưng chung của kinh tế thị trường.
Về bản chất, kinh tế thị trường là hệ quả tất yếu của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất; là hệ thống các quan hệ kinh tế do nền sản xuất hàng hoá tạo ra; là kiểu tổ chức nền sản xuất có “đầu vào” và “đầu ra” đều là hàng hoá; là chuỗi sản xuất - kinh doanh trong đó các chủ thể kinh tế vừa độc lập, vừa lệ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh và hợp tác với nhau nhằm mục tiêu đạt giá trị gia tăng ngày càng nhiều hơn. Có thể khái quát các đặc trưng của kinh tế thị trường là: 1) Các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự chi phối của các quy luật thị trường, trước hết là quy luật giá trị và cung cầu. 2) Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế là quan hệ tiền tệ. 3) Thị trường trở thành căn cứ chủ yếu để phân bố các nguồn lực kinh tế. 4) Giá trị gia tăng và lợi nhuận tối đa trở thành động lực bên trong, trực tiếp chi phối hoạt động của các doanh nghiệp. 5) Kinh tế thị trường là tự do hoá kinh tế, mở cửa và hội nhập.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam xây dựng là nền kinh tế thay thế nền kinh tế kế hoạch tập trung mô hình Liên xô đã tồn tại ở Việt Nam trước đổi mới. Lý luận về mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành dần cùng với những bước đi của đổi mới mà khởi đầu là việc Hội nghị Trung ương 6, khoá IV (năm 1979) thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển sản xuất hàng hoá. Hội nghị Trung ương 8, khoá V (6/1985) đã phân tích tác hại to lớn về nhiều mặt của việc kéo dài cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp; quyết định xóa bỏ cơ chế quản lý đó, chuyển sang cơ chế quản lý thông qua hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN, lấy kế hoạch hoá làm trung tâm. Tinh thần và nội dung đổi mới của Hội nghị Trung ương 8, khoá V là bước chuyển hướng, trưởng thành về tư duy kinh tế của Đảng về việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ và vận dụng cơ chế thị trường trong sự thống nhất với cơ chế kế hoạch hoá trong thời kỳ chuyển từ khôi phục và phát triển kinh tế (1975-1986) sang thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khoá V về hạn chế của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá, về việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ và cơ chế thị trường tạo nên quan điểm kinh tế chủ đạo của Đảng trong giai đoạn 1986 - 1990. Đó là: 1) Kiên quyết điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, đầu tư và xây dựng nhằm khắc phục sai lầm đã kéo dài quá lâu, đã phải trả giá quá đắt cho cách làm ăn bất chấp hiệu quả; xuất phát từ nguyện vọng chủ quan, không tính tới những bước đi phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế. 2) Kiên quyết chuyển hướng bố trí đầu tư, đặc biệt chú trọng xác định đúng cơ cấu xã hội của nền kinh tế, tức cơ cấu thành phần kinh tế. Thừa nhận sự tồn tại và sử dụng các thành phần kinh tế theo phương châm “sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn”; lấy phát triển làm mục đích, cải tạo làm phương tiện; bỏ qua quan hệ sản xuất TBCN, song không bỏ qua phát triển sản xuất hàng hoá. 3) Tiếp tục sử dụng nguyên tắc tập trung dân chủ đối với cơ chế quản lý kinh tế. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không đối lập nhau, không thể coi mặt nào là chủ yếu [4, tr.34].
Tháng 12/1986, Đại hội VI tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khoá IV và khẳng định “Quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc, thành nền kinh tế hàng hoá” [7, tr.63]. Tại thời điểm này, kế hoạch hoá vẫn là đặc trưng số một, quan hệ hàng hoá - tiền tệ chỉ là đặc trưng
thứ hai của nền kinh tế Việt Nam. Sau Đại hội VI, một số hội nghị Trung ương diễn ra trong năm 1987 mới đưa ra một số quyết sách liên quan đến việc hình thành tư duy về vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển kinh tế. Sự chuyển hướng tư duy kinh tế bắt đầu bộc lộ, mặc dù được diễn đạt trong các Nghị quyết theo lối ẩn dụ. Trên đà đổi mới tư duy kinh tế, Hội nghị Trung ương 6, khoá VI (1989) nêu ra sáu nguyên tắc đổi mới: 1) Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu CNXH, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. 2) Đổi mới tư duy là nhằm vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện mới. 3) Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước. 4) Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. 5) Xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. 6) Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tháng 6/1991, Đại hội VII tiến thêm bước lý luận mới về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác” [9, tr.66]. Đại hội rút ra năm bài học kinh nghiệm: 1) Phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới. 2) Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. 3) Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội. 4) Nền dân chủ XHCN nhất thiết phải được phát huy ngày càng sâu rộng. 5) Phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh [9, tr.52-57].
Tháng 6/1996, tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII khẳng định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng” [10, tr.97]. Từ nhận thức đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra chủ trương “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN” [10, tr.82]. Như vậy, tại Đại hội này, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng mới chỉ nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, mà chưa sử dụng khái niệm kinh tế thị trường. Phải đến tháng 4/2001, Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” và khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Đại hội X (2006) khẳng định “phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn” [12, tr.24]. Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm. Những thành tựu của đổi mới kinh tế trong 25 năm qua là điều kiện vật chất để đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006-2010, Đại hội khẳng định “Phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN” [12, tr.26] và đánh giá 5 năm (2006 - 2010) có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX đề ra.
Cũng tại Đại hội X, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không những chỉ định tính, mà đã định lượng cùng với những giải pháp thực hiện nó.
Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay có những đặc trưng chủ yếu sau đây 1) Về hệ thống mục tiêu: Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm thực hiện tới mục tiêu tổng quát dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2) Về
chế độ sở hữu và thành phần kinh tế “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” [12, tr.75].
Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển hẳn từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp dựa chủ yếu vào hai chế độ sở hữu với hai thành phần kinh tế cơ bản là nhà nước và tập thể sang nền kinh tế ba chế độ sở hữu với năm thành phần kinh tế cơ bản. Xét từ góc độ đối tượng quản lý nhà nước, có lẽ nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước trong nền kinh tế ấy là một trong những nét chủ yếu nhất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. 3) Về cơ chế quản lý kinh tế: Chủ trương phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh nhằm điều tiết sản xuất và kích thích phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động và tăng cường vai trò định hướng, quản lý của Nhà nước; đặc biệt sử dụng tốt công cụ kế hoạch hoá và quản lý vĩ mô thông qua các chương trình mục tiêu, chiến lược trung và dài hạn cũng như kế hoạch hàng năm theo phương thức thị trường điều tiết trực tiếp sản xuất và doanh nghiệp thông qua các quy luật giá trị, giá cả và cung cầu. 4) Về hình thức phân phối: Thực hiện công bằng xã hội; kết hợp phân phối theo lao động với mức độ đóng góp vốn và các nguồn lực vào quá trình sản xuất; đồng thời bảo đảm cho mọi thành viên của xã hội đều được hưởng thành quả của sự phát triển kinh tế.
Từ sau Đại hội X tới nay quan điểm của chúng ta vẫn là hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể khái quát nội dung quan điểm đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam vào một số điểm sau đây:
Một là, đổi mới cơ chế kinh tế. Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN. Trước khi đổi mới, Việt Nam luôn nhấn mạnh kinh tế XHCN về bản chất là nền kinh tế kế hoạch hoá, đối lập kế hoạch với thị trường; nhưng trong quá trình đổi mới ngày càng thấy rõ vai trò quan trọng của thị trường, để đi đến khẳng định “cơ chế thị trường là sự vận động của kinh tế hàng hoá theo quy luật khách quan, còn kế hoạch hoá là một công cụ mà chủ thể quản lý dùng để hướng nền kinh tế phát triển cân đối, có hiệu quả. Hai cái đó không đối lập nhau về bản chất. Điều quan trọng là kế hoạch hoá phải được đổi mới, không xuất phát từ ý chí chủ quan mà phải tôn trọng và vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường” [12, tr.60].
Hai là, đổi mới việc xây dựng quan hệ sản xuất. Trước đổi mới, do chưa vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất nên quan hệ sản xuất vượt trước lực lượng sản xuất một cách duy ý chí; làm cho quan hệ sản xuất phình to; các hình thức sở hữu không phát huy được vai trò; quản lý yếu kém dẫn đến phân phối cào bằng. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã xác định xây dựng và hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, bố trí hợp lý cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Trước đổi mới, việc bố trí cơ cấu kinh tế thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng thực tế. Thành tựu nổi bật nhất của những năm đầu đổi mới là bố trí lại cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, hướng vào thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Bốn là, chuyển từ kinh tế khép kín sang kinh tế mở. Trong tư duy lý luận về kinh tế trước đổi mới, Việt Nam luôn nhấn mạnh cần phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam tồn tại cơ cấu kinh tế khép kín, hướng nội. Từ khi đổi mới, nhất là từ khi Hội nghị Trung ương 6, khóa VI đề ra chủ trương xây dựng và thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại thì việc mở cửa, đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào phân công lao động quốc tế, hội nhập vào xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế mới dần được thực hiện.
Quan điểm cơ bản về đổi mới chính trị ở nước ta là đổi mới tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn về CNXH và con đường lên CNXH, trong đó trọng tâm là đổi mới hệ thống chính trị. Nói đến hệ thống chính trị là nói đến quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; đến bộ máy chính quyền và các thiết chế quản lý xã hội. Đây là những vấn đề cơ bản, mang ý nghĩa sống còn đối với mọi cuộc cách mạng, mọi chế độ xã hội. Vì vậy, đổi mới hệ thống chính trị vừa đòi hỏi sự nhạy bén, theo kịp xu thế thời đại; vừa yêu cầu sự tỉnh táo, khôn khéo và đặc biệt, sự tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc.
Với mục tiêu thực hiện tốt hơn nền dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, quá trình đổi mới hệ thống chính trị đang được triển khai trên các hướng chủ yếu: Một là, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội nói chung và các thành tố trong hệ thống chính