Những nhân tố tác động đến giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Ninh

Một phần của tài liệu đảng bộ tỉnh quảng ninh lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ 2001 2010 (Trang 43 - 49)

Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Ninh

Ngày nay, toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu không chỉ của riêng mỗi quốc gia mà nó trở thành vấn đề chung của toàn thế giới.

Toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có sự tác động đến giáo dục và đào tạo.

Đây là vấn đề rất cần đƣợc nhận thức sâu sắc và đầy đủ, vì nó đã và đang tác động trực tiếp và gián tiếp đến nền giáo dục Việt Nam, trong khi Việt Nam lại đang đi sau so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Việt Nam đã gia nhập WTO và thực hiện Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ thế giới GATS, trong đó thừa nhận giáo dục là một lĩnh vực dịch vụ khá mạnh và ta đang từng bước đẩy mạnh hợp tác quốc tế và mở cửa thị trường dịch vụ giáo dục (có điều kiện).

Quá trình dịch vụ hoá giáo dục tạo và đào tạo gắn với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế về giáo dục, đã làm cho chức năng của giáo dục có sự thay đổi, đƣợc nâng lên một nấc thang mới trong tương quan với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội - đó là chức năng kinh tế, chức năng đầu tƣ, chức năng tạo lập giá trị xã hội mới và kết nối xã hội; chức năng cạnh tranh quốc tế…; giáo dục không còn chỉ thuần tuý là đào tạo nhân lực và phúc lợi xã hội.

Sự giao thoa, đối thoại, hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nền giáo dục làm cho nền giáo dục của mỗi nước vừa có các giá trị dân tộc, vừa có giá trị quốc tế - nhân loại. Sự “thắng”, “thua” của một nền giáo dục không phải chỉ ở sự chiếm lĩnh thị phần giáo dục lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, mà còn ở chỗ biết tiếp thu, phát huy có hiệu quả những giá trị tích cực, tiên tiến hơn của các nền giáo dục khác, của nhân loại.

Nắm chắc và phát huy những giá trị của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị quốc tế để hội nhập có hiệu quả.

Do những thay đổi về chức năng và cơ chế phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với trình độ phát triển cao của nền kinh tế - xã hội và của các lĩnh vực khác, giáo dục và đào tạo trên thế giới đang diễn ra những xu hướng mới cần được nhận thức đầy đủ và sâu sắc.

Trước hết, cần nhận thức sâu sắc tính cách mạng và khoa học của quá trình đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo. Đây không phải là những sửa đổi, điều chỉnh nhỏ, đơn lẻ, cục bộ, mang tính bề mặt. Đây là quá trình đổi mới “đụng” tới tầng sâu bản chất của hệ thống giáo dục, làm thay đổi căn bản về chất của hệ thống giáo dục và đào tạo, để đƣa hệ thống giáo dục và đào tạo lên một trình độ mới, hiệu quả hơn, chất lƣợng hơn.

Nội dung đổi mới căn bản và nội dung đổi mới toàn diện gắn bó mật thiết với nhau; phải trên cơ sở làm rõ các “nội dung căn bản” để cụ thể hoá cho các “nội dung toàn diện”. Bởi vì giáo dục và đào tạo “học một lần cho làm việc cả đời” khác căn bản với giáo dục và đào tạo “học cả đời để luôn thích ứng công việc và cuộc sống”, lại càng khác hơn so với nền giáo dục đào tạo trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức;

nền giáo dục đƣợc bao cấp hoàn toàn khác với nền giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Những nội dung của đổi mới căn bản và toàn diện gắn với định hướng đổi mới cơ bản nêu trên cần phải đƣợc nghiên cứu sâu, đồng bộ, có sức thuyết phục cả về cơ sở lý luận khoa học và cơ sở thực tiễn trên bình diện chung đối với cả nền giáo dục - cả hệ thống giáo dục đào tạo, đồng thời cụ thể sâu cho mỗi phân hệ, mỗi cấp bậc học, hình thức giáo dục, thậm chí cho mỗi môn học. Nhƣng tổng hợp lại sẽ tạo nên một nền giáo dục và đào tạo năng động - hiệu quả - chất lƣợng, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới và phù hợp với xu thế của thời đại.

Có thể nói rằng quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc trong giai đoạn mới. Bởi vì, sức mạnh của một dân tộc, năng lực cạnh tranh của một quốc gia đang

chuyển mạnh từ nguồn lực tài nguyên,vốn, lao động sang tri thức, trí tuệ, nguồn nhân lực chất lượng cao - là năng lực tổng hợp của những thế hệ người làm chủ thể vững vàng, tin cậy, đầy bản lĩnh của một dân tộc. Và đó phải là sản phẩm của một nền giáo dục và đào tạo tiên tiến, hiện đại.

Có thể khẳng định rằng, việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo Việt Nam sẽ góp phần quyết định vào việc “Phát triển và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một đột phá chiến lƣợc, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [16, 27]

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế và diện mạo mới. Kinh tế Việt Nam liên tục phát triển; an ninh, quốc phòng đƣợc giữ vững. Thu nhập bình quân theo đầu người trong 10 năm (1997-2007) qua tăng liên tục từ 337 USD năm 1997 đã lên đến 823 USD năm 2007. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng cường công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP ngày càng giảm; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Đời sống của nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, còn khoảng 14%. Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, với môi trường chính trị ổn định và mức sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng đƣợc cải thiện. Việc chủ động tích cực hội nhập quốc tế, và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tạo thêm nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Mặc dù có những bước tăng trưởng đáng kể, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế có mức thu nhập thấp. Các chỉ số về kết cấu hạ tầng, phát triển con người vẫn ở thứ hạng dưới so với nhiều nước trên thế giới. Năng suất lao động còn thấp, sản xuất chủ yếu vẫn dựa trên những công nghệ lạc hậu, sản phẩm ở dạng thô, chi phí cao, giá trị gia tăng thấp. Cơ cấu kinh tế có chuyển dịch nhƣng còn chậm: tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp trong GDP còn thấp, tỷ trọng nông nghiệp tuy có giảm nhƣng vẫn ở mức khá

cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế, thiếu lộ trình chủ động hội nhập quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ.

Hiệu lực quản lý nhà nước đối với nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội còn thấp.

Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tận dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển làm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các nước khác. Hợp tác quốc tế được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư của các nước, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.

Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt đƣợc trong phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực Việt Nam lớn mạnh lên nhiều so với trước.

Sự đóng góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho phát triển giáo dục ngày càng được tăng cường. Những người Việt Nam ở nước ngoài với nhiều tiềm năng đang hướng về Tổ quốc và dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục đất nước.

Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới có thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn hơn, Việt Nam có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cho giáo dục cơ hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc. Khả năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục Việt Nam, khi mà năng lực quản lý của Việt Nam đối với giáo dục xuyên quốc gia còn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp thích hợp để định hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.

Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cƣ, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo

dục giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học.

Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới không chỉ đòi hỏi số lƣợng mà còn đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt qua ngưỡng các nước có thu nhập thấp, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế, phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lƣợng trí tuệ cao. Quá trình này đòi hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc dù 62,7% dân số Việt Nam trong độ tuổi lao động, nhưng trình độ của lực lượng lao động này còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Đất nước còn thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực. Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chƣa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng cả về số lƣợng và chất lƣợng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức ép rất lớn đối với giáo dục và đào tạo.

Trong vòng 20 năm tới, phấn đấu xây dựng nền giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một xã hội học tập, có khả năng hội nhập quốc tế; nền giáo dục Việt Nam phải đào tạo được những con người Việt Nam có năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, có khả năng thích ứng, hợp tác và năng lực giải quyết vấn đề mới nảy sinh, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có thể lực tốt, có bản lĩnh, trung thực, ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm công dân, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm 2001 - 2005, với sự nỗ lực và quyết tâm cao giáo dục và đào tạo Quảng Ninh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Qui mô trường, lớp, số người đi học ở các cấp học, nghành học đều tăng; đội ngũ giáo viên được cường về về số lượng và chuẩn hóa về chất lượng. Công tác xã hội hóa giáo dục có bước phát triển, hệ thống các trường ngoài công lập tăng nhanh. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp có sự đổi mới, từng bước gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của các ngành kinh tế và thị trường sức lao động.

Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo ở Quảng Ninh còn bộc lộ một số hạn chế nhƣ: có sự phân tán và chênh lệch rõ rệt về nhu cầu phát triển giữa các vùng miền. Ở các vùng đô thị, đồng bằng giáo dục phát triển mạnh tiến kịp các tỉnh thành lớn trong cả nước.

Nhƣng tại các vùng miền núi, hải đảo và các làng chài lênh đênh trên biển giáo dục còn gặp nhiều gian nan, vất vả. Trình độ dân trí của nhân dân ở miềm núi, hải đảo, các vùng đồng bào dân tộc ít người còn thấp, cơ sở vật chất của trường miền núi còn nhiều khó khăn. Chất lƣợng đào tạo nhìn chung chƣa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Chất lượng giảng dạy và học tập của một bộ phận giáo viên và học sinh, sinh viên chƣa đáp ứng nhu cầu. Đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ sau đại học còn thấp, tốc độ kiên cố hóa, cao tầng hóa, xây dựng trường chuẩn quốc gia còn chậm.

Công tác quản lý giáo dục còn những bất cập...Đây chính là những khó khăn, ảnh hưởng đến việc phát triển giáo dục và đào tạo ở Quảng Ninh. [55, tr.5]

Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng, xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết.

Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đổi mới giáo dục đào tạo đã chỉ ra những tồn tại của giáo dục – đào tạo Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay nhƣ: chất lượng giáo duc – đào tạo ở vùng nông thôn chênh lệch lớn với thành thị; phương pháp dạy - học chậm đổi mới; đào tạo chưa gắn với nhu cầu địa phương và chất lượng chưa cao; cơ sở vật chất kỹ thuật tuy đã đƣợc tập trung đầu tƣ khang trang hiện đại, nhƣng vẫn còn tình trạng các cơ sở giáo dục một số nơi chưa bảo đảm, nhất là thiếu trường mầm non; chế độ chính sách với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp học còn nhiều hạn chế, bất cập.

Từ đó, để đổi mới căn bản và toàn diện ngành giáo dục –đào tạo, tỉnh Quảng Ninh cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống các trường và cơ sở giáo dục từ mầm non, phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa theo đề án quy hoạch phát triển giáo dục của tỉnh đến 2020.

Bên cạnh đó, tập trung nâng cao chất lƣợng đội ngũ giáo viên, có chính sách thu hút giáo viên giỏi về tỉnh công tác. Song song đó, ngành giáo dục – đào tạo tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong quản lý, điều hành giáo dục ở các cấp; đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh; tăng cường dạy-học ngoại ngữ, tin học trong hệ thống giáo dục; thực hiện mục tiêu là nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện.

Một phần của tài liệu đảng bộ tỉnh quảng ninh lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ 2001 2010 (Trang 43 - 49)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(114 trang)