Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo từ năm 2006- 2010

Một phần của tài liệu đảng bộ tỉnh quảng ninh lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ 2001 2010 (Trang 49 - 59)

Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về giáo dục và đào tạo

2.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo từ năm 2006- 2010

Nhận thức ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định quan điểm: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [15, tr.94-95]. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ rõ:

cần phải tạo đƣợc chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo. Đổi mới tƣ duy giáo dục một cách nhất quán từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo đƣợc chuyển biến căn bản và toàn diện của nền giáo dục Việt Nam, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ngày 5-3-2009, Bộ Chính trị (khoá X) đã họp và ra Thông báo Kết luận “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2020” với một số điểm cơ bản nhƣ sau:

Giáo dục Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, đạt đƣợc những kết quả quan trọng, về cơ bản đã thực hiện đƣợc các mục tiêu, nhiệm vụ đƣợc nêu trong Nghị quyết Trung ƣơng 2 và Kết luận Hội nghị Trung ƣơng 6 (khoá IX).

Giáo dục đã giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, chương trình và các chính sách giáo dục. Đã phát huy được những ảnh hưởng tích cực, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường, chống khuynh hướng thương mại hoá trong giáo dục. Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt đối với trẻ em gái, người dân tộc và con em các gia đình nghèo, giáo dục cho các đối tƣợng thiệt thòi ngày càng đƣợc chú trọng.

Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển.

Các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực, đồng thời các trường ngoài công lập phát triển khá mạnh. Việc phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ có bước tiến bộ.

Tuy nhiên, giáo dục - đào tạo chƣa thực sự là quốc sách hàng đầu. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp; giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng sống, đến “dạy người” và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên.

Với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam có một nền giáo dục tiên tiến, lành mạnh, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, cần thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục sau đây:

Thứ nhất, nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc, của Đảng. Phát triển quy mô hợp lý cả đại trà và mũi nhọn, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, xây

dựng xã hội học tập. Đẩy mạnh phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, thực hiện phổ cập THCS một cách bền vững; củng cố kết quả xoá mù chữ, ngăn chặn tình trạng tái mù chữ. Làm tốt việc phân luồng, giáo dục hướng nghiệp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho bậc học mầm non, bảo đảm hầu hết trẻ em trong độ tuổi đƣợc đi học mẫu giáo. Rà soát và bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức phát hiện, bồi dƣỡng nhân tài ngay từ cấp học phổ thông, đặc biệt ở cấp đại học. Chú trọng xây dựng một số trường, chuyên ngành đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Tăng nhanh quy mô đào tạo công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề ở những lĩnh vực công nghệ cao tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới.

Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục. Đổi mới căn bản chính sách sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng năng lực thực tế. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả công tác quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục. Chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng; không để tồn tại các trường đào tạo có chất lượng kém. Tăng quyền tự chủ, chịu trách nhiệm xã hội của nhà trường đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế công khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của cộng đồng và xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong quản lý giáo dục ở các cấp. Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lƣợng giáo dục. Thực sự coi trọng vai trò của khoa học giáo dục. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục, giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới giáo dục.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lƣợng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Xây dựng một số trường sư phạm thực sự trở thành trường trọng điểm đủ sức làm đầu tàu cho cả hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên. Tăng đầu tư cơ sở vật chất nâng cấp các trường, các khoa sư phạm. Không ngừng nâng cao chất lƣợng, bảo đảm đủ số lƣợng giáo viên cho cả hệ thống giáo dục. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học đủ

về số lƣợng, đồng bộ về cơ cấu, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Chuẩn hoá trong đào tạo, tuyển chọn và sử dụng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Nhà nước cần thực hiện tốt hơn chính sách ƣu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về vật chất và tinh thần để thu hút những người giỏi làm công tác giáo dục.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Rà soát lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa phổ thông, khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành, chƣa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học; chuẩn bị xây dựng và triển khai thực hiện bộ chương trình giáo dục phổ thông mới, theo hướng hiện đại, phù hợp và có hiệu quả. Đổi mới, hiện đại hoá chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Thực hiện tốt đào tạo theo học chế tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm phần lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống.

Thứ năm, tăng cường nguồn lực cho giáo dục: Tăng đầu tư của Nhà nước cho giáo dục và đào tạo; ưu tiên các chương trình mục tiêu quốc gia, khắc phục tình trạng bình quân, dàn trải. Không ngừng đầu tƣ xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục.

Thực hiện tốt chủ trương xây dựng ký túc xá sinh viên và nhà công vụ cho giáo viên ở vùng khó khăn. Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, Nhà nước có chính sách huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục và đào tạo, khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tích cực tham gia các hoạt động phát triển giáo dục. Xây dựng cơ chế quản lý, giám sát mọi nguồn đầu tƣ của xã hội cho giáo dục. Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo nhằm góp phần quan trọng nâng cao chất lƣợng, mở rộng quy mô và đảm bảo công bằng trong giáo dục. Miễn học

phí cho con gia đình chính sách, các hộ nghèo, giảm học phí cho con em hộ cận nghèo và hỗ trợ cho con em các hộ có thu nhập rất thấp. Học phí đào tạo nghề nghiệp từ bậc sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học. Thực hiện cho học sinh học nghề, sinh viên gia đình có hoàn cảnh khó khăn đƣợc vay để học.

Thứ sáu, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục: Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ với việc bổ túc nâng cao trình độ cho đối tƣợng cử tuyển. Quan tâm đào tạo cán bộ vùng dân tộc (cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở). Tiếp tục phát triển hệ thống trường nội trú, bán trú, thực hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số. Đặc biệt chú ý đến con thương binh, liệt sĩ, con gia đình có công với nước, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật thông qua phát triển các loại quỹ khuyến học, khuyến tài trong các tổ chức xã hội, trong các cộng đồng dân cƣ.

Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo: Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến. Mở rộng hợp tác đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân về giáo dục và đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, ưu tiên lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại học và giáo dục nghề nghiệp; có cơ chế, chính sách thu hút các nhà giáo, nhà khoa học người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học. Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết; đồng thời tăng cường quản lý việc học tập, sinh hoạt của lưu học sinh.

2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo

Tiếp tục quán triệt, vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII( 12/2005); Nghị quyết số 06/NQ-TU ngày 13/4/2006 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “ phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2007-2015 và định hướng đến năm 2020, đã xác định các quan điểm chỉ đạo và phát triển giáo dục đào tạo của tỉnh giai đoạn 2006-2010 nhƣ sau:

Một là, phát triển quy mô trường, lớp một cách có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng bộ cho tất cả các cấp học, ngành học, hài hòa giữa các vùng miền theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn mục tiêu

“ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài” cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và cả nước.

Hai là, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị giảng dạy, đồng thời nâng cao chất lƣợng hiệu quả giáo dục đào tạo; chuyển đổi loại hình từ công lập ra ngoài công lập, dịch vụ công trong trường công lập ở các địa bàn thuận lợi đồng thời tăng cường đầu tư cho giáo dục ở các vùng miền khó khăn.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; tăng cường năng lực quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh áp dục khoa học thông tin và các công nghệ tiên tiến khác trong dạy và học. Quán triệt cuộc vận động của quốc gia về giáo dục và đào tạo: chống tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích, vi phạm đạo đức nhà giáo, học sinh ngồi nhầm lớp và đào tạo sinh viên không theo nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp.

Từ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã hoạch định đƣợc chiến lƣợc phát triển giáo dục và đào tạo đúng đắn.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII (12/2005) xác định phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006-2010: “ tiếp tục đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh”. Nghị quyết số 06/NQ-TU ngày 15/3/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “ phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2007-2015 và định hướng đến năm 2020 là:

Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo và nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện và vững chắc. Phát triển quy mô trường lớp, xây dựng xã hội học tập, liên thông giữa các bậc học, ngành học, đảm bảo sự công bằng xã hội trong giáo dục; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “ chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát triển mạnh mẽ hệ thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề. Đảm bảo đủ số lƣợng nâng cao chất lƣợng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực hiện xã hội hóa giáo dục, huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phân cấp, tạo động lực và sự chủ động cho các cơ sở đào tạo.

Mở rộng hợp tác, liên kết với các cơ sở giáo dục trong nước, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo [58, tr. 6]

Từ đánh giá tổng quát về giáo dục và đào tạo, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo cho thời gian tiếp theo là:

Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện.

Chăm lo, phát triển giáo dục mầm non. Củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và THCS, phấn đấu đến năm 2010 cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học... Đến năm 2010 có 12% trường mầm non, 85% trường tiểu học, 25% trường trung học cơ sở, 23% trường trung học phổ thông công lập đạt chuẩn quốc gia. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập... Mở rộng hệ thống các trường dạy nghề, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, các trung tâm học tập cộng đồng ở các huyện thị. [23, tr.51].

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình phát triển giáo dục và đào tạo trong những năm 2001-2006, Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 15/3/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh tỉnh về “ phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2007-2015 và định hướng đến năm 2020 đã tiếp tục xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006- 2010 cụ thể:

Một là, phát triển quy mô trường, lớp một cách có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp cho tất cả các cấp học, ngành học. Chỉ đạo quy hoạch mạng lưới trường lớp từ năm 2006 đến năm 2010 theo hướng đa dạng hóa các loại hình trường lớp, ổn định trường hiện có. Mở rộng hệ thống các trường chuyên nghiệp, dạy nghề.

Hai là, phát triển giáo dục mầm non nhằm tạo bước chuyển biến cơ bản, vững chắc và toàn diện, nâng cao chất lƣợng nuôi dƣỡng chăm sóc, giáo dục trẻ; củng cố mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, đặc biệt chú trọng vùng đồng bào dân tộc, miền núi, hải đảo; đa dạng hóa các phương thức chăm sóc, giáo dục sao cho đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều đƣợc chăm sóc, giáo dục bằng hình thức thích hợp. Củng cố mạng lưới trường, lớp, nâng tỉ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ 60% năm 2010, 100% trẻ em 5-6 tuổi đƣợc đến lớp. Phấn đấu đến năm 2010 có 50% giáo viên mần non có trình độ trên chuẩn. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng còn 12% năm 2010.

Ba là, Phát triển giáo dục tiểu học nền tảng vững chắc cho giáo dục ở các bậc học tiếp theo, giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục đúng độ tuổi ở 100% số phường, xã. Duy trì và giữ vững kết quả phổ cập THCS. Từ năm 2007-2010 triển khai phổ cập giáo dục trung học ở những địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội phát triển nhƣ: Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí. Năm 2010 đến trước 2020 triển khai phổ cập giáo dục trung học trên toàn tỉnh. Đến năm 2010 có 65%

giáo viên tiểu học, 35% giáo viên THCS, 10% giáo viên THPT có trình độ trên chuẩn.

Phát triển quy mô giáo dục tiểu học vào lớp 6 năm 2010 đạt 99%, học sinh tốt nghiệp vào lớp 10 các loại hình đạt 95%. Phấn đấu đến năm 2010 có 100% học sinh các bậc học đƣợc học tin học. Về chất lƣợng năm 2010 có 35% họ sinh tiểu học, 15% học sinh

Một phần của tài liệu đảng bộ tỉnh quảng ninh lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ 2001 2010 (Trang 49 - 59)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(114 trang)