5. Những đóng góp của luận án
1.3. TRÂN TRỌNG, ƯU ĐÃI CÁC TRÍ THỨC NHO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo đã truyền bá sang nước ta, nhưng biến đổi và thích nghi với cư dân phương Nam. Tuy Nho giáo vẫn chưa bén rễ đến các tầng lớp nhân dân mà chỉ có ảnh hưởng trong tầng lớp quý tộc gốc di dân và quý tộc bản địa, nhưng việc học tập chữ Hán và các nội dung kinh điển của Nho gia trong thời kỳ Bắc thuộc đã có những thành tựu nhất định.
Sang thời kỳ tự chủ, dưới thời các vương triều đầu tiên và những thập kỷ đầu triều Lý, trong gần 100 năm đó, xuất hiện tình hình đáng lưu ý: suốt thời gian đó, nhà nước chỉ dựng chùa chứ không xây trường học; không hề có một kỳ thi nào để tuyển chọn người có văn học, chữ nghĩa ra làm việc nhà nước dù là ở cấp thấp nhất; trẻ em học chữ nghĩa trong chùa và người dạy là các nhà sư; cố vấn
chính trị của vua là những nhà sư (rất uyên thâm về Nho học) chứ không phải là các Nho sĩ; sứ thần đi Trung Quốc, quý nhất là mang về kinh Phật...Trong tình hình đó, xã hội Đại Việt nổi lên một nhu cầu, ngày càng thêm cấp bách. Đó là một nền học thuật với những trí thức có thể giúp nhà nước tổ chức và điều hành đất nước tốt hơn. Điều này Phật giáo và những nhà sư ngày càng tỏ ra bất lực. Các đạo sĩ cũng không giúp ích được gì. Nền học thuật đó, trong thời đại ấy không gì ngoài nền học vấn chữ Hán và Nho học. Muốn có được một nền Nho học, trước hết cần có Nho sĩ, sau đó mới là trường, lớp, thể chế học hành, thi cử...Phải làm sao có được nhiều Nho sĩ có thực học. Muốn vậy cần trân trọng, ưu ái các Nho sĩ đến từ bất cứ phương nào. Từ đó mở ra cơ hội cống hiến cho những trí thức Nho giáo người Hoa.
Thực ra việc ưu ái sử dụng các trí thức Nho gia người Hoa đã được thực hiện từ thời vua Lê Đại Hành. Thái sư Hồng Hiến là nhân vật tiêu biểu. Toàn Thư chỉ ghi chép khá vắn tắt về con người này: "...Hiến là người Bắc, thông hiểu kinh sử, thường theo các cuộc chinh phạt, làm quân sư, cùng là khuyên vua lên ngôi, mưu bàn việc nước, có công lớn, vua tin dùng như tâm phúc..."[ 53, 1, tr. 226].
Theo tài liệu này thì Hồng Hiến trước khi Lê Hoàn lên ngôi đã từng là quan lại trong triều Đinh và có tham gia làm cuộc chính biến trao áo long bào cho quan Thập Đạo, rồi lại tiếp tục làm quan phục vụ triều Lê, lập nhiều công tích. Nhưng điều mà cả Toàn Thư và các bộ sử Việt sau này đều ghi chép về Hồng Hiến là ông ta "thông hiểu kinh sử". Chi tiết này giải thích cơ sở của việc ông ta giữ vị trí cao trong bộ máy quan lại cả hai triều Đinh và Lê. Chắc chắn còn có nhiều người Hoa khác, có học vấn, thông hiểu kinh sử đã được ưu ái sử dụng trong bộ máy quan lại các cấp của chính quyền Đại Việt non trẻ mà Hồng Hiến là một điển hình đã được chính sử Đại Việt lưu ý ghi nhận.
Khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô về Thăng Long, bắt đầu thời kỳ nhân dân Đại Việt quyết tâm đưa đất nước bước vào tiến trình phát triển quốc gia Đại Việt tồn tại độc lập và ngang hàng với Trung Quốc thì một nhu cầu khác cũng đã xuất hiện. Đó là nhu cầu về một hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị
Đại Việt. Các vương triều trước đó vừa ngắn ngủi, vừa nhiễu loạn: vừa bước đầu tự chủ đã phân tranh với 12 sứ quân cát cứ; tôi thần hành thích một lúc cả vua và hoàng tử; anh em dòng tộc tranh ngôi giết hại lẫn nhau; vua bất đạo, tà dâm, bệnh hoạn; các kỷ cương giềng mối xã hội lỏng lẻo, rã rời... Hiện trạng đó đặt ra nhu cầu cấp bách phải có một hệ tư tưởng chính thống, vừa là một lợi khí phục vụ đắc lực cho chính thể trung ương tập quyền, củng cố chế độ đẳng cấp, giáo dục lòng trung thành với nhà vua nhưng cũng phải có khả năng gắn kết toàn dân tộc và tất cả các thành phần nhân dân Đại Việt trong thời kỳ mới. Trong thời đại đó, hệ tư tưởng ấy chính là Nho giáo gắn liền với nền học vấn chữ Hán theo các sách vở của Nho gia. Lý Công Uẩn được chính các nhà sư đưa lên làm vua nhưng khi dời đô về Thăng Long, dù đã cho xây dựng khá nhiều chùa, ông vẫn không chọn Phật giáo làm hệ tư tưởng của giai cấp thống trị mà chọn Nho giáo. Chính các hoàng đế Đại Việt mà mở đầu là Lý Công Uẩn đã chủ động đẩy mạnh việc phát triển Nho giáo với sự góp sức của các trí thức nho gia người Hoa được nhà cầm quyền đón đợi và ưu ái.
Những tài liệu ít ỏi về vấn đề này cho phép ta hình dung phần nào sự việc.
Phạm Thành Tài là quan lại của nhà Tống trấn nhậm huyện Tĩnh Giang (Phúc Kiến) đã viết trong sách Quế hải ngu hành Chí, vào cuối thế kỷ thứ XII rằng
"...Nhà cầm quyền (Đại Việt) luôn luôn đón tiếp nồng hậu người Mân (có nghĩa người Phúc Kiến), họ đến Việt Nam bằng tàu thuyền. Chính quyền cho phép người Mân tham chính và tham khảo ý kiến họ trước khi ban hành phép nước..."[19, tr.145]. Hai từ "tham chính" và "tham khảo" cho thấy các nho sĩ người Hoa được phép hoặc trực tiếp tham gia bộ máy quan lại, hoặc là cố vấn cho chính quyền hay các viên chức riêng biệt. Một tài liệu khác của học giả Hoàng Xuân Hãn còn trích dẫn được thư của Từ Bá Tường gửi Lý Công Uẩn, rằng "...Bá Tường này tài lược không kém người nhưng không được trọng dụng ở Trung Quốc. Vậy xin giúp đại vương..."[78, tr.11]. Sử cũ của Việt Nam không ghi chép rõ bao nhiêu trí thức Nho gia người Hoa đã được trọng dụng và họ đã được sử dụng vào việc gì nhưng qua các tài liệu có được cho phép ta tạm khẳng định:
- Một số trí thức Nho gia người Hoa đã được các vua Đại Việt đón tiếp nồng hậu và trân trọng sử dụng.
- Số ít trong họ đã được trọng dụng làm các chức việc trong triều, ở những vị trí công việc đòi hỏi cần có trình độ chữ Hán cao. Một số khác có vai trò như những môn khách, cố vấn cho vua và các quan lại những ý kiến cần thiết về những vấn đề tổ chức và quản lý đất nước. Còn phần nhiều trong họ được trân trọng sử dụng vào việc giảng dạy chữ Hán và các sách vở Nho gia trong dân chúng, nhất là trong các gia đình quý tộc. Hai nhóm sau (môn khách và người truyền bá chữ nghĩa trong dân) ngày càng đông hơn; ngược lại, nhóm thứ nhất (các chức việc) ngày càng ít, đến cuối thời Lý thì dứt hẳn.
- Họ có những đóng góp nhất định trong quá trình phát triển nền học vấn chữ Hán trong xã hội Đại Việt, ngay khi việc tổ chức học hành này còn tự phát trong dân chúng, nhà nước chưa tổ chức được một hệ thống giáo dục từ cơ sở đến trung ương. Nhưng chính kết quả từ một nền học vấn tự phát triển trong dân chúng đó đã dẫn đến sự nhảy vọt là kỳ thi Nho học tam trường đầu tiên của Đại việt được tổ chức vào tháng 2 năm 1075, thời vua Lý Nhân Tông, Lê Văn Thịnh trúng tuyển được chọn vào hầu vua học tập. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển của nền học vấn chữ Hán ở Đại Việt sau quá trình tự hồi phục trong dân chúng. Tiếp theo đó là hàng loạt các sự kiện lịch sử liên quan: thành lập Quốc Tử Giám (tháng 4 năm 1076); kỳ thi Lại Viên đầu tiên (tháng 2 năm 1077), với ba phép thi viết, thi tính toán và thi về hình luật; và tháng 8 năm 1086 kỳ thi văn học đầu tiên tuyển người vào Hàn Lâm Viện, Mạc Hiển Tích đổ đầu, được bổ làm Hàn Lâm học sĩ. Cùng với đà phát triển nền học vấn chữ Hán, những nội dung tư tưởng Nho gia cũng được phổ biến rộng rãi, trước hết là trong hàng ngũ quan lại và giới quý tộc. Quá trình này chín muồi với sự kiện thành lập Văn Miếu vào tháng 8 năm 1070, trước kỳ thi Nho học tam trường đầu tiên 5 năm. Với tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ Phối được bày trong Văn miếu, bốn mùa tế lễ, hoàng thái tử hàng ngày đến chiêm bái và học tập, chứng minh rằng Nho giáo sau mấy mươi năm phát triển giờ đã có vị trí quan trọng trong xã hội Đại Việt.
- Như đã trình bày ở trên, những trí thức Nho gia người Hoa được các vua quan và quý tộc Đại Việt trân trọng đón nhận và sử dụng. Nhưng từ thời Lý Nhân Tôn trở đi đến cả thời triều Trần sau đó, tình hình có thay đổi. Sự trân trọng, đón nhận trước đó không còn nữa, có thể do hai lý do chính : số lượng Nho sĩ và những người hiểu biết về các nội dung tư tưởng Nho gia đã phần nào đủ đáp ứng nhu cầu, nhất là sau các cuộc thi tuyển. Furiwara Riichirò cũng đã giả định như vậy khi ông cho rằng "...dường như số học giả bản xứ đã gia tăng dần dần dưới triều Trần và nhà cầm quyền thấy ít cần đến các người Trung Hoa nữa..."[19, tr.148]. Lý do thứ hai có thể chính đáng hơn, đó là cuộc chiến tranh với nhà Tống xảy ra từ tháng 10 năm 1075 và chấm dứt vào giữa năm 1077, gây thiệt hại khá nặng nề cho cả hai bên. Cuộc chiến tranh này, cùng với hậu quả của nó đã làm thay đổi thái độ của nhà cầm quyền đối với các Nho sĩ người Hoa đến từ đất Tống.
Những cuộc chiến tranh như vậy cũng đã diễn ra dưới triều Trần càng tiếp tục khắc sâu thái độ e dè của nhà cầm quyền Đại Việt.
Các trí thức Phật giáo đến từ Trung Quốc cũng được nhà cầm quyền Đại Việt trân trọng đón nhận.
Đến đầu thời Lý, trên đất Đại Việt đã hình thành ba Thiền phái Phật giáo với hàng ngàn ngôi chùa và am tự lớn nhỏ trên khắp đất nước. Cả ba người sáng lập các thiền phái này đều là những cao tăng đến từ Trung Quốc: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Trong ba vị này thì sư Thảo Đường vốn là một người trong đoàn tù binh mà quân đội triều Lý giải về sau lần thảo phạt Chiêm Thành quấy rối biên cương. Ở kinh đô Thăng Long, thân phận tù binh của Thảo Đường thay đổi thành người sáng lập ra Thiền phái Thảo Đường. Điều đó cho thấy triều Lý rất trân trọng các cao tăng, nhất là những cao tăng người Hoa, tiếp tục truyền thống vốn có trước đây của nhân dân Đại Việt, luôn quý trọng các vị cao tăng đến từ phương Bắc mặc dù luôn nêu cao tinh thần đấu tranh giành quyền tự chủ.
Đến thời triều Trần, ba Thiền phái Phật giáo nhất thống thành thiền phái Yên Tử và sau đó là Thiền phái Trúc Lâm. Truyền thống quý trọng các cao tăng
đến từ Trung Quốc vẫn tiếp tục và hình như không bị ảnh hưởng lắm bởi những cuộc chiến tranh và tình hình chính trị giữa hai nước. Các cao tăng là khách mời danh dự của triều đình. Và một lần nữa, chính những cao tăng đến từ Trung Quốc đã làm cho Phật giáo Việt Nam đa dạng và phong phú hơn với sự xuất hiện cũng như ảnh hưởng của thiền phái Lâm Tế mà cho đến ngày nay vẫn còn truyền thừa trong nhiều chùa chiền ở Việt Nam. Tên tuổi của các thiền sư đó vẫn còn lưu lại trong bộ Thiền Uyển Tập Anh như sư Thiên Phong, Đức Thành, Phúc Tuệ...