5. Những đóng góp của luận án
3.3. PHÂN ĐỊNH CÁC LỆ THUẾ
3.3.2. Lệ thuế biệt nạp
Người Hoa ở lại Việt Nam lâu dài thường sinh sống bằng buôn bán và sản xuất các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Một số có tay nghề và khả năng tài chính thì đứng ra lãnh trưng khai thác mỏ hoặc đảm trách những công việc quan trọng
hơn như đúc tiền, thầu cung cấp những mặt hàng ngoại nhập nhu yếu cho chính quyền… Ngoài khoản thuế thân phải đóng theo lệ định chung, các hộ người Hoa công thương này phải chịu các loại thuế khác nhau đánh vào loại hàng hoá mà họ sản xuất hay kinh doanh. Loại thuế này có thể gọi chung là thuế biệt nạp. Kể cả các hộ người Thanh làm nghề đánh cá trên vùng biển Bắc bộ cũng phải chịu loại thuế biệt nạp này.
Khi thương thuyền nước ngoài chở hàng hoá cập bến, cơ quan tào vụ của triều Nguyễn tổ chức khám xét, đo đạc để đánh thuế. Cách đánh thuế ở đây hoàn toàn không dựa trên cơ sở số lượng hay chất lượng hàng hoá trong thuyền mà chủ yếu dựa vào thước tấc khoang thuyền và địa phương xuất xứ của thuyền. Các thương thuyền người Hoa cũng chịu thuế theo phương thức xác định này. Lệ thuế nhập cảng này khá rối rắm, sẽ được đề cập sâu ở các phần sau vì nó không liên quan đến loại thuế biệt nạp đang được khảo sát ở đây.
Đối với hàng hoá xuất qua cảng biển hay qua biên giới bằng đường bộ, triều Nguyễn có xác lập một số quy tắc đánh thuế, nhưng nhìn chung vừa tuỳ tiện vừa thiếu toàn diện.
Năm 1803, Gia Long chuẩn lệ đánh thuế 5% tổng giá trị hàng hoá quý của nước ta như sừng tê, ngà voi, đậu khấu, sa nhân, nhục quế, hồ tiêu, tô mộc…mà các thuyền buôn nước ngoài, kể cả thuyền buôn người Hoa mua xuất cảng [65, 04, tr.428-429]. Nếu mua các mặt hàng gỗ như cột buồm, bánh lái, ván xẻ…phải chịu thuế 10%. Riêng gỗ lim, thời Gia Long cũng cho phép mua bán và chịu thuế 10%, nhưng đến năm Minh Mạng thứ 14 thì bị cấm sau sự kiện Bố Chính Nghệ An là Nguyễn Đình Tân đề nghị cho phép dân chúng được tự do mua bán gỗ lim với thương nhân người Hoa, nhà nước định giá, đánh thuế 1/10 nhưng vua Minh Mạng đã chẳng những không đồng ý mà còn có lời quở phạt nghiêm khắc.
Cũng loại hàng quý này, nếu do các lái buôn người Thanh tải về bằng đường bộ thì lệ thuế được xác định năm Gia Long thứ tư, tức năm 1805, lại chỉ chịu thuế bằng 1/40 giá tiền và lệ này được xác định là lệ vĩnh viễn [83, 03, tr.
232]. Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), lệ thuế này được khẳng định lại chặt chẽ
hơn, thuế buôn đường bộ ở Bắc Thành, cứ giá hàng 100 quan thì nộp 2 quan 5 tiền thuế, lại còn ghi rõ: "…ở thành thì do phủ Hoài Đức cho giấy thông quan, đến Lạng Sơn thì trấn đổi cấp giấy khác…" [83, 04, tr.186]. Không có tư liệu nào cho thấy lệ thuế này có thay đổi gì không trong các đời vua sau.
Những mặt hàng khác cũng được xác định thuế cụ thể. Tháng 11 năm 1835, Tổng đốc An- Hà là Trương Minh Giảng và Tuần phủ An Giang là Lê Đại Cương xin định thuế cho 108 người Thanh mới chiêu mộ làm hộ khai thác nhựa tràm và hộ dầu rái, 35 người lập làm hộ diêm tiêu. Vua đồng ý định lệ thuế hộ nhựa và dầu rái hàng năm mỗi người nộp 50 cân, hộ diêm tiêu 8 cân [83, 17, tr.210]. Người Hoa còn đứng ra lãnh trưng khai thác muối, lập bến muối để thu lợi và chịu thuế với nhà nước như trường hợp ở phủ Ba Xuyên có người Hoa xin lãnh trưng lập bến muối, mỗi năm nộp 6.000 quan tiền thuế, nhưng vua Tự Đức không thuận vì cho rằng làm vậy tuy nhà nước có nguồn thu nhưng “…chỉ làm giàu cho người nước ngoài, dân ta không dự gì, trên dưới cùng thiệt…” [83, 31, tr.130]. Ngay khi nhà nước lần đầu tiên, vào năm 1866, bắt đầu đánh thuế rượu ở 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đã có một người Thanh là thương buôn đứng ra lãnh trưng mỗi năm chịu thuế 2.500 quan tiền [83, 31, tr.44]. Ở Hà Tiên có đặc sản là cây hồ tiêu, Tuần phủ sở tại là Trần Chấn đã đề nghị đánh thuế ở 121 sở của chủ vườn người Hoa mỗi cây hồ tiêu chịu thuế 5 đồng cân hạt tiêu. Đề nghị này được chấp thuận và trở thành lệ thuế cụ thể ở Hà Tiên.
Nhìn chung, người Hoa khi tham gia sản xuất loại hàng hoá, sản phẩm nào đều có những lệ thuế xác định rõ ràng nhưng phần nhiều tuỳ tiện, không đâu giống đâu. Cả về mức thuế mà người Hoa phải nộp cũng có hiện tượng loại thuế với sản vật này thì cao hơn so với cùng mức của người Việt, loại với sản vật khác lại thấp hơn, chẳng loại nào giống loại nào. Lấy thuế biệt nạp đối với hộ làm diêm tiêu ở An Giang nói trên làm ví dụ thì người Hoa phải nộp tới 8 cân mỗi người, mỏ diêm tiêu ở đây có tới 35 người, số thuế phải nộp gần 300 cân diêm tiêu; trong khi đó hầu hết các mỏ diêm tiêu khác người Việt khai thác, nhà nước chỉ thu thuế trung
bình là 100 cân mỗi mỏ. Ngược lại, với hộ khai thác dầu rái và nhựa tràm thì mức thuế lại thấp hơn đến phân nửa.
Đối với những hộ đánh cá người Thanh trên vùng biển Yên Quảng, việc thu thuế nhìn chung có khác. Họ vừa phải chịu thuế thân, vừa phải chịu thuế biệt nạp.
Nhưng thuế biệt nạp ở đây lại không tính trên số cá tôm đánh bắt được mà lại tính bằng thước tấc đo khoang thuyền. Lưu ý rằng lệ thuế này chỉ có từ thời Minh Mạng, chính xác là từ năm Minh Mạng thứ 20 (1839). Hội Điển ghi chép như sau:
"Minh Mạng năm thứ 20, chuẩn y lời bàn: bọn Thái Hợp Lợi là thuyền hộ buôn cá ở phủ Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông…tới vùng biển nước ta bắt cá kiếm ăn, xin làm dân nộp thuế, chiếu theo thể lệ người Thanh ở các hạt, có vật lực mỗi người cả năm nộp 2 lạng bạc, không vật lực mỗi người cả năm nộp bạc 1 lạng; rồi xét sổ thuyền hiện tại, xem dài, ngang, thước, tấc, tính rõ từng khoản kê khai; về lệ nên đánh thuế, thời chiếc thuyền nào, các xà ngang ở giữa lòng thuyền từ 5 thước đến 6 thước 9 tấc, chiếu lệ thuyền trinh mà đánh thuế; chiếc thuyền nào ở giữa xà ngang ở giữa lòng thuyền từ 7 thước trở lên, chiếu lệ thuyền đại dịch mà đánh thuế, đều liệu gia thêm 2 thành, nhưng do tỉnh cấp thẻ bài, cho ra biển đánh cá sinh sống…" [65, 04, tr.339]. Qui định " đều liệu gia thêm 2 thành" cho thấy mức thuế người Thanh phải chịu ở cấp thuyền trinh và thuyền đại dịch đều phải cao hơn cùng loại của người Việt. Đến năm đầu Thiệu Trị (1840), chuẩn y lời bàn của đình thần về mức thuế của hai bang Khai Vĩ và Hà Cổ, mức thuế cụ thể được xác định đối với thuyền trinh là 12 quan, thuyền đại dịch là 37 quan 2 tiền (đã thêm hai thành). Nhưng hình như triều Nguyễn chẳng thu được bao nhiêu, bằng chứng là năm Thiệu Trị thứ 7, có chỉ của vua trách cứ về việc này rằng "từ trước tới nay đã 8, 9 năm chưa thấy có kết quả rõ rệt…" [65, 04, tr.340].
Việc đúc tiền là công việc quan trọng của nhà nước nhưng những người Hoa có tay nghề và khả năng tài chính đã được triều Nguyễn cho phép lãnh trưng.
Năm 1813, Gia Long cho đúc tiền kẽm nặng 7 phân hiệu "Gia Long thông bảo", ở Bắc thành có hai người Hoa là Trần Hiển Chu và Chu Vĩnh Cát xin tự mua kẽm đúc tiền, lấy tiền kẽm 130 quan đổi lấy 100 quan tiền đồng ở kho, được nhà nước
đồng ý [83, 04, tr.178]. Tư liệu này chưa nói rõ được mức chịu thuế ở đây là bao nhiêu. Có một tư liệu khác đáng lưu ý trong việc xem xét lệ thuế đúc tiền: năm Tự Đức thứ 7 (1854) triều đình đã "đổi lại lệ thuế đúc tiền của bọn người buôn nước Thanh: 3 thành cho khấu trừ vào số kẽm, còn 7 thành nộp bằng tiền thực (lệ trước:
5 thành nộp tiền thực, 5 thành khấu trừ vào số kẽm)" [83, 28, tr.44]. Như vậy lệ thuế trong đúc tiền kẽm đã có từ trước với mức khấu trừ có lợi hơn cho người lãnh trưng so với mức mới đổi lại.
Công việc lãnh trưng của người Hoa khá nhộn nhịp trong việc khai mỏ với lệ thuế thường là khoán nộp tiền hay sản phẩm cho nhà nước.
Sau khi thống nhất đất nước, triều Nguyễn rất quan tâm đến việc khai thác mỏ. Tổng số mỏ các loại ở khắp các vùng trong nước được khai thác bằng nhiều hình thức trong tiền bán thế kỷ XIX là 124, trong đó số lượng mỏ vàng là 34, bạc là 14, đồng là 9…Triều Nguyễn thi hành chế độ lãnh trưng trong khai thác mỏ đã tạo điều kiện cho người Hoa trở thành nhân vật nổi bật trong lãnh vực này. Năm Gia Long thứ nhất, triều đình đã cho phép Hoàng Phong Bút lãnh trưng khai thác mỏ vàng Tú Sơn, mỏ bạc Nam Dương và mỏ đồng Tụ Long; cho phép Cầm Nhân Nguyên khai thác mỏ vàng Mẫn Tuyền, mỏ chì Tú Dung…Đó là những người Hoa tiên phong trong việc lãnh trưng khai thác mỏ ở Việt Nam dưới thời triều Nguyễn. Sau đó hàng loạt các mỏ kim loại khác đã được tổ chức khai thác với nhiều người Hoa đã được giao lãnh trưng. Theo Đỗ Bang, hầu hết các mỏ kim loại quý như vàng, bạc, đồng, chì, kẽm…người Hoa đều trúng thầu lãnh trưng khai thác. Điều này có thể giải thích do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó quan trọng nhất là do khả năng tài chính dồi dào đủ sức chịu đựng để vượt qua thời gian đầu khai thác, khi sản lượng chưa ổn định, chi phí lại cao, nhưng vẫn phải chịu thuế theo lệ. Người Hoa đã lãnh trưng khai thác 27/34 mỏ vàng, 13/14 mỏ bạc…Phu mỏ cũng là người Hoa tuyển dụng từ các vùng Nam Trung Quốc, thường tập trung đông người, gây tình hình phức tạp về trật tự trị an. Điều này đã được Nguyễn Công Trứ đề cập trong báo cáo thỉnh an vào tháng 3 năm 1834:
"…các sở mỏ vàng mỗi năm nộp thuế từ 1 đến 4 lạng, mỗi lạng tính 80 quan tiền.
Những người nhà Thanh làm mỏ mỗi nơi tụ tập để kiếm ăn đến trên dưới bảy tám trăm người, đều là những kẻ du đãng trốn tránh. Chúng đào xẻ mạch đất, quấy nhiễu dân địa phương, thường gây ra xích mích…" [83, 14, tr.149].
Triều Nguyễn xác định các mức thuế cho các mỏ khá tuỳ tiện. Mỏ vàng thường phải nộp thuế mỗi năm trên dưới chục lạng vàng (cao nhất có mỏ Bằng Thành Thái Nguyên, năm 1839, nộp tới 15 lạng vàng nguyên), cách đánh thuế dựa vào quy mô và khí vàng vượng hay chìm của mỏ. Mỏ bạc nộp thuế bằng bạc, mỗi năm thường từ một đến vài trăm lạng bạc, cao nhất là mỏ Bông Ngân ở tỉnh Thái Nguyên, năm 1803 nộp tới 700 lạng. Cách tính thuế cũng tuỳ vào quy mô và khí bạc vượng hay chìm. Mỏ đồng nộp thuế bằng đồng, mỗi năm vài trăm cân, riêng mỏ đồng Tụ Long ở Tuyên Quang thường nộp mỗi năm 13.000 cân đồng và còn nộp thêm thuế bằng bạc 40 lạng, năm Minh Mạng thứ 20 tăng lên 80 lạng bạc. Các loại mỏ khác cũng nộp thuế bằng sản phẩm khai thác được với các mức rất khác nhau. Nhìn chung cách tính thuế của nhà nước ở đây chỉ dựa vào phỏng đoán và thường tuỳ tiện. Lệ thuế lãnh trưng khai thác mỏ cho người Hoa cũng tuỳ tiện nên rất khác nhau, có nơi lãnh trưng người Hoa có lợi hơn, có nơi ngược lại. Từ năm 1831, Minh Mạng còn buộc các chủ khai thác các mỏ vàng ở Bắc thành mỗi năm ngoài số thuế phải nộp bằng vàng còn phải bán thêm cho nhà nước 50 lạng vàng (trả tiền mỗi lạng vàng bằng 12 lạng bạc hoặc bằng 60 quan tiền). Các chủ mỏ vàng (đại đa số là người Hoa) không bằng lòng nên đã bị cắt lãnh trưng, không cho khai thác tiếp.