Không gian kiến trúc

Một phần của tài liệu Bài giảng môn học Kiến trúc công trình thuỷ lợi (Trang 152 - 158)

Chương III CÁC THÀNH PHẦN NGÔN NGỮ KIẾN TRÚC SỨC BIỂU

III. Không gian kiến trúc

3.1. Không gian kiến trúc:

Không gian kiến trúc là một phần không gian tự nhiên, được tạo lập có bàn tay can thiệp của con người, do sự sáng tạo của kiến trúc sư. Không gian kiến trúc rất phong phú đa dạng vì thế không gian kiến trúc phải có nhiều yêu cầu chức năng, có mục đích rõ ràng (vì một công năng cụ thể liên quan đến một hoặc nhiều hoạt động của con người, phải đảm bảo yêu cầu thẩm mỹ để đóng góp tô điểm cảnh quan sống).

* Theo sự hình thành, không gian kiến trúc chia ra 3 loại:

+ Không gian kín được tạo nhờ kết cấu bao che ở cả sáu mặt giới hạn, tạo nên hình khối kiến trúc;

+ Không gian nửa kín có một vài mặt che được giải phóng hay che chắn không gian không hoàn toàn như hiên, lô gia, sân trời…

+ Không gian thoáng hở tạo bởi các khoảng trống giữa các công trình như các sân trong hoặc không gian ước lệ, ẩn dụ xung quanh vật thể kiến trúc như quanh một đài kỷ niệm, cột mốc, một mảng tường có ý nghĩa. Không gian hở nhưng không phải là vô hạn. Giới hạn của không gian hở được quyết định bởi tầm ảnh hưởng công năng, sức biểu hiện của nghệ thuật kiến trúc quyết định và tầm nhìn – trường mắt của người quan sát, sử dụng nó.

* Theo góc nhìn, không gian kiến trúc chia ra 2 loại:

+ Không gian cận cảnh (ngoại thất sát kề công trình);

+ Không gian viễn cảnh (ngoài thất ngoài tầm ảnh hưởng của công năng nhưng có đóng góp cho cảnh quan khu vực);

* Theo cách thức tổ chức, không gian kiến trúc chia làm 5 loại:

+ Không gian tuyến tính:

- Là một trường đoạn tuyến tính của sự lặp lại các không gian như trong các trường học, các lớp học đặt cạnh nhau thành một dãy, hoặc các đơn vị ở đặt nối tiếp nhau hai bên hay về một bên của hành lang.

- Không gian tuyến tính có kích thước và chức năng thường giống nhau, hoặc được hình thành bởi một loạt các không gian khác nhau về độ lớn, hình thức và chức năng.

- Không gian này thể hiện tính phương hướng mạnh, được kết thúc bằng một của vào được xếp đặt tốt hay bằng sự liên kết với địa hình. (h.3.99)

+ Không gian tập trung:

- Là không gian chủ đạo và đột xuất ở chu vi có một số không gian phụ như các nhà hát, nhà hoà nhạc…

- Tổ chức không gian hướng tâm có thể hướng tâm tán xạ hoàn hành, hoặc xoáy trôn ốc.

- Không gian này không định hướng được một cách tự nó, có tính chất đậm đặc, chặt chẽ và đều đặn. Tổ hợp không gian tập trung còn mang tính chất cố định, tĩnh tại

+ Không gian tán xạ:

- Là một không gian tập trung có thêm tổ chức không gian tán xạ như nhà làm việc có nút giao thông ở giữa hay ở kiến trúc sân bay có hình sao ba cánh…

- Không gian này có tính hướng ngoại, trải dài trong môi trường của nó, với những không gian tuyến tính kéo dài gắn bó chặt chẽ với các yếu tố đặc biệt của cảnh quan (h.3.101).

+ Không gian hợp nhóm:

- Là không gian được hợp bởi sự kết hợp đơn giản các không gian thành phần đưa đến một hiệu quả thị cảm chung như các đơn vị không gian bao quanh một nút giao thông, sân trong trong khu nhà chung cư…

- Không gian hợp nhóm có thể là tập hợp các không gian có nét thị cảm chung, tương tự về hình dáng, hình thức và hướng, hoặc cũng có thể là các không gian khác nhau về độ lớn, hình thức và công năng nhưng liên hệ không gian nọ với không gian kia bằng một trục đối xứng hay một sự cân bằng quay.

- Không gian này loại bỏ tính chất cứng nhắc, và có thể thêm bớt vào một số hình thức khác (h.3.102).

+ Không gian mạng:

- Là không gian được tổ chức trong mạng lưới ô vuông hay ba chiều như mặt đứng hay cấu trúc không gian…(h.3.103).

- Một mạng điển hình là một đơn vị không gian mang tính mô đun nhắc đi nhắc lại, mạng có thể được thêm bớt nhung vẫn giữ được tính nhất quán và tính nguyên dạng về mặt tổ chức không gian.

- Mạng quen thuộc là mạng lưới ô vuông có tính đều đặn về kích thước và sự đối xứng hai chiều, mạng lưới ô vuông về bản chất là trung tính, không có tính phương hướng.

Trong kiến trúc không gian thường đi liền với hình khối vì thế sáng tác kiến trúc được gọi là “ nghệ thuật tổ chức không gian – hình khối”, tổ chức môi trường sống cho con người.

Không gian tập trung . Không gian tán xạ

Thành phố âm nhạc – Pari – Pháp Trung tâm hội nghị và triển lãm CoMo E.C - Ý Hình 3.100. Không gian tập trung

Hình 3.101. Không gian tán xạ

Hình 3.103. Không gian mng

3.2. Không gian và cm giác ca con người:

Để có được một giải pháp tổ hợp có hiệu quả thẩm mỹ cao, người thiết kế phải nắm được những đặc điểm biểu cảm của các loại không gian và hình khối để có thể sắp xếp bố cục những chức năng hoạt động thành một không gian hay một tổ hợp nhiều không gian, kiến tạo ra các hình khối kiến trúc với mọi quy mô đáp ứng yêu cầu công năng.

- Không gian kín khi được giới hạn tầm nhìn ra ngoại cảnh ở các hướng nói chung tạo cảm giác yên ổn, an toàn, tập trung tư tưởng và thư giãn. Tuy nhiên tuỳ theo hình dạng phòng, trần, mối quan hệ diện tích sàn và cao độ sẽ có ảnh hưởng đến tình trạng tâm sinh lý như sự tù túng, cảm giác bị đè nặng…(h.3.104).

- Không gian lưu thông khi các không gian bị giới hạn bằng các tường bao che một cách cứng nhắc và rõ ràng tạo cho con người cảm giác sinh động, tự do thoải mái và gây nhiều ấn tượng bất ngờ, phong phú do được liên tục thay đổi góc nhìn trong quá trình di chuyển, sử dụng. Đó cũng là các không zgian xâu chuỗi, không gian đa năng có vách ngăn mềm dẻo linh hoạt (h.3.105).

- Không gian nửa kín, nửa hở (không gian trung gian) khi một hay nhiều chiều hướng của không gian được mở hay ngăn che không hoàn toàn (tầm cao ngăn che dưới 2m) bằng các tấm vách thủng (tường lỗ hoa, tấm mành, giàn hoa) tạo cảm giác thoải mái, do có thể tiếp xúc tự nhiên nên vừa gây cảm giác yên ổn, an toàn lại vừa gây cảm

- Không gian mở có giới hạn là các không gian có mái che như các sân trong, vườn nội tâm, các khoảng trống giữa các ngôi nhà thấp cho cảm giác vừa riêng tư, vừa công cộng, sự tự do trong khả năng chủ động của bản thân. Không gian mở còn gây cảm giác có cảm giác phương hướng mạnh, đối diện với công chúng có tư thái đón tiếp như sảnh của khách sạn (h.3.107).

- Không gian mở vô hạn có tác dụng tạo tầm nhìn thoáng thường gây cảm giác hư vô, sự nhỏ bé hoặc thiếu của động về sự khống chế của ngoại cảnh, của vũ trụ nhưng cũng gợi mở trí tưởng tượng, ước mơ hoài bão. Các không gian này thường là quảng trường nơi phục vụ cho quảng đại quần chúng.

Tóm lại, các giải pháp tổ chức không gian bằng biện pháp xử lý mối quan hệ giữa liên hệ và giãn cách thông qua các vách che đã tạo ra nhiều ấn tượng thẩm mỹ cho người sử dụng (thoải mái tụ do, yên tĩnh kín đáo, sinh động phong phú, căng thẳng hay yên ổn êm dịu…) và cũng có thể đình hướng cho lưu tuyến, cho hoạt động theo trình tự dây chuyền.

Một phần của tài liệu Bài giảng môn học Kiến trúc công trình thuỷ lợi (Trang 152 - 158)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(249 trang)