Chương II: Hoạt động - giao tiếp - nhân cách
I. Hoạt động và cấu trúc của hoạt động
Có nhiều định nghĩa về hoạt động tuỳ theo góc độ xem xét. Theo triết học, hoạt động là sự biện chứng của chủ thể và khách thể, bao gồm quá trình khách thể hoá chủ thể, chuyển những đặc
điểm của chủ thể vào sản phẩm của hoạt động và chủ thể hoá khách thể (chủ thể tiếp thu phản ánh
đặc điểm của vật thể vào năng lực của con người).
Theo sinh lý học, hoạt động là sự tiêu hao năng lực thần kinh và bắp thịt của con người khi tác động vào hiện tượng khách quan, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Ví dụ: hoạt động vui chơi của trẻ em, hoạt động học của học sinh, hoạt động lao động của người lín...
Theo tâm lý học, xuất phát từ quan điểm cho rằng, con người không phải cái túi đựng phản xạ và hoạt động không đơn giản là các phản ứng, cử động, hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân, nhóm và xã
héi.
Nói cách khác, hoạt động là mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể, là phương thức tồn tại trong xã hội, trong môi trường xung quanh. Các hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào khách thể, sự vật, tri thức. Đó là các quá trình bên ngoài. Các hoạt động của con ng−ời cần phải có quá trình tinh thần, trí tuệ. Đó là quá trình bên trong. Nói một cách
đơn giản, hoạt động của con người bao gồm cả hành vi lẫn tâm lý, ý thức, công việc chân tay và công việc trong bộ não. Phân tích hoạt động của con người, các nhà tâm lý học thấy nó có hai đặc
điểm; đó là tính đối t−ợng và tính chủ thể. Điều đó có nghĩa là, hoạt động bao giờ cũng nhằm vào đối t−ợng, tạo ra sản phẩm (vật chất hoặc tinh thần) để thoả mãn nhu cầu nào đó. Đối t−ợng của hoạt động có thể là sự vật, hiện tượng, khái niệm, quan hệ…, có thể là một người, nhóm người. Khi tiến hành hoạt động, con người bao giờ cũng dùng các công cụ, phương tiện ngày càng có hiệu quả. Ngôn ngữ, trí tuệ, tri thức ngày càng trở thành lực l−ợng giúp cho con ng−ời hoạt
động giao tiếp hiệu quả hơn.
Hoạt động có đối t−ợng hiện thực hoá mối quan hệ giữa chủ thể và đối t−ợng.
Con người, với tư cách là chủ thể của hoạt động, được đặc trưng bởi thế giới tinh thần. Quá
trình nhằm vào đối t−ợng bao giờ cũng có các yếu tố tâm lý của chủ thể tham gia vào (mong muốn, mục đích, tự đánh giá tri thức, kinh nghiệm). Nói cách khác, hoạt động của con người là
nơi giáp nối, chỗ gặp gỡ tác động lẫn nhau và xâm nhập vào nhau của những yếu tố tâm lý nh−
nhu cầu, ý muốn, thói quen, hiểu biết, tình cảm… với những yếu tố bên ngoài nh− nguyên vật liệu, công cụ, quy tắc, quan hệ xã hội, pháp luật, truyền thống, phong tục… và các yếu tố bên trong của người khác như cá tính, động cơ, lối sống...
Tóm lại, tâm lý học lấy khái niệm nền tảng là hoạt động làm trung tâm, luôn luôn nghiên cứu các hoạt động tâm lý trong những hoạt động cụ thể. Do đó, khi phân tích hoạt động, chúng ta không những chỉ chú ý đến việc hoạt động diễn ra trong bối cảnh nào, sử dụng công cụ, phương tiện gì, tác động vào cái gì, giao tiếp với ai…, mà còn phải xác định rõ đó là hoạt động nào, diễn ra ở lứa tuổi nào, hoàn cảnh khi tiến hành hoạt động ra sao…
2. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động. Nếu dựa vào cấp độ chức năng, ta có thể chia hoạt động của con người thành các hoạt động: nhận thức, cảm xúc, ý chí, thần kinh, tuần hoàn, hô hấp…
Nếu phân chia theo cấp xã hội, ta có hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối, hoạt động nhóm, hoạt động quốc gia và hoạt động quốc tế… Nếu căn cứ vào cấp độ cá nhân, các hoạt động
đ−ợc chia thành: vui chơi, học tập, giao tiếp và lao động. Đặc điểm và vai trò cấu trúc các hoạt
động theo cách phân loại thứ ba này sẽ được phân tích kỹ ở Chương VI.
3. Cấu trúc của hoạt động
Trong lịch sử tâm lý học, L.X. V−gôtxki (1896 - 1934) là ng−ời đầu tiên phân tích các khái niệm “công cụ”, “thao tác”, “mục đích”. Tiếp tục phát triển tư tưởng này, nhà tâm lý học A.N.
Leonchiev đã nghiên cứu hoạt động sâu hơn và mô tả đ−ợc cơ cấu chung của hoạt động (1975).
Nh− đã phân tích, mọi hoạt động bao gồm hai phía: chủ thể và đối t−ợng.
Về phía đối tượng, ta có động cơ thúc đẩy hoạt động hướng tới đối tượng đó (một bên ta thấy
động cơ, và bên kia tương ứng với nó là hoạt động). Động cơ được phát triển theo xu hướng ngày càng cụ thể hơn trong các mục đích. Muốn đạt được mục đích cần có các phương tiện tương ứng.
Về phía chủ thể, muốn thực hiện một động cơ nào đó, chủ thể phải tiêu hao năng lực của thần kinh và bắp thịt. Quá trình này trong tâm lý học gọi là hoạt động. Trong tiến trình hoạt động, mỗi một mục đích được thực hiện nhờ một hành động tương ứng. Và chủ thể đạt được mục đích là nhờ các phương tiện xác định. Mỗi phương tiện nhất định quy định cách thực hiện hoạt động được gọi là thao tác. Nói cách khác, hoạt động gộp bởi các thao tác.
Tóm lại, trong hoạt động có 6 thành tố: hoạt động, hành động, thao tác, động cơ, mục đích và ph−ơng tiện.
Có thể minh hoạ cấu trúc vi mô của hành động bằng sơ đồ sau:
Phía chủ thể Phía đối t−ợng
Hoạt động Động cơ
Mục đích
Ph−ơng tiện Hành động
Thao tác
Cấu trúc của hoạt động cho thấy, trong hoạt động chứa đựng tâm lý của con người (chủ thể của hoạt động). Nội dung tâm lý bao gồm động cơ và mục đích.
Cấu trúc của hoạt động có ý nghĩa về phương pháp luận ở chỗ, các nhà tâm lý học đã tìm ra sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa chủ thể và đối t−ợng. Mặt khác, cách hiểu cấu trúc của hoạt động nh− thế cũng có ý nghĩa to lớn trong công tác giáo dục.
Phải tổ chức quá trình hoạt động liên tục ở trẻ em. Thầy giáo có thể tổ chức một cách tự giác quá
trình chiếm lĩnh nền văn hoá của nhân loại ở học sinh. Hoạt động của học sinh là hoạt động có tổ chức, bắt đầu ở bên ngoài một cách vật chất, có thể kiểm soát đ−ợc một cách cảm tính và trực quan; tiếp theo đó là quá trình biến hình thức bên ngoài thành hình thức bên trong (thành tâm lý, ý thức, nhân cách). Đối tượng hoạt động của trẻ em (học sinh) trong nhà trường chính là những
đối tượng trong đời sống hiện thực với những quan hệ kinh tế - xã hội đương thời. Về thực chất, nhà trường là nơi đang diễn ra cuộc sống thực sự của trẻ em. Tổ chức cho trẻ em hoạt động với nhiều đối t−ợng chính là tổ chức quá trình phát triển tâm lý của chúng.
Nói đến hoạt động, chúng ta còn phải nói đến hệ thống những việc làm, những xử sự, hành vi của mỗi người. Con người có những động cơ thúc đẩy nhằm đạt những mục đích nhất định và phải sử dụng các công cụ, ph−ơng tiện, cũng nh− tuân theo những chuẩn mực, quy tắc, luật lệ… của xã
hội nhằm đảm bảo cho họ tồn tại và phát triển trong các nhóm xã hội.
4. Vai trò của hoạt động
Tâm lý là sản phẩm của hoạt động, tâm lý không phải là cái gì có sẵn trong con người, không phải là sự bộc lộ những gì đã được chương trình hoá trong gen. Trẻ em sinh ra dù có cơ thể người mà sống ngoài xã hội loài ng−ời thì cũng không có đ−ợc tâm lý ng−ời. Những trẻ em bị bỏ trong rừng, sống giữa bầy thú, khi đ−ợc phát hiện và trở lại xã hội loài ng−ời cũng không thể nào học nói bình thường được. Điều đó chứng tỏ rằng “ý thức tâm lý” là một sản phẩm xã hội. Quá trình giáo dục cơ bản đòi hỏi một trạng thái còn mềm dẻo của hệ thần kinh. Nh−ng hệ thần kinh chỉ là nền tảng. Hoạt động mới là cơ sở để sinh ra đời sống tâm hồn. F. Engels đã nói: “Hoạt động đã
nâng con ng−ời từ trạng thái thú vật lên trạng thái con ng−ời”.
ở trường tiểu học, để giáo dục học sinh phải tổ chức có hiệu quả các hoạt động dạy và học.
- Hoạt động dạy và học đạo đức.
- Hoạt động dạy và học văn hoá, khoa học.
- Hoạt động dạy và học lao động.
- Hoạt động dạy và học thể dục.
- Hoạt động dạy và học công tác xã hội.
Đây là những hoạt động cùng nhau giữa thầy và trò nhằm làm cho học sinh lĩnh hội nền văn minh đã tích luỹ được của loài người để các em biết vận dụng vào cuộc sống và cao hơn nữa là sáng tạo thêm, làm phong phú thêm nền văn minh đó. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân, ở nhà trường chỉ có hoạt động dạy và học văn hoá được coi trọng, được kiểm tra và đánh giá. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học ở nhà trường. Đã thế lại còn tình trạng ở một số nơi, nạn học thêm tràn lan, học không có thời gian để các em vui chơi, giải trí và tiến hành các hoạt
động khác. Đó là lối học nhồi nhét có hại cho sự phát triển toàn diện của các em.
5. Sự chuyển hoá tự hoạt động này sang hoạt động khác
Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) cho rằng hoạt động tâm lý bên trong xuất phát từ hoạt động thực tiễn bên ngoài. P.Ia. Galperin đã mô tả và tiến hành thực nghiệm quá trình chuyển hoá ấy bằng lý thuyết “các giai đoạn hình thành hành động trí óc”. Thành công của ông trong việc mở ra hướng nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh một quan điểm rất quan trọng: muốn có được hoạt
động tâm lý bên trong thì trước hết, phải tổ chức được hình thái bên ngoài của nó, và trẻ em sẽ hoạt động trước hết là trên đối tượng bên ngoài ấy, rồi qua các giai đoạn kế tiếp nhau mới chuyển vào trong thành tâm lý, ý thức.
Nh− đã trình bày, hoạt động bao giờ cũng có đối t−ợng. Các hoạt động khác nhau thì có đối t−ợng khác nhau. Vì thế khi chuyển từ đối t−ợng này sang đối t−ợng khác là chúng ta đã thay đổi loại hình hoạt động.
Các nhà tâm lý học đã nghiên cứu và đi đến kết luận rằng đối t−ợng của hoạt động có hai hình thức tồn tại: vật thể - vật chất tồn tại “tự nó”, ngoài đầu óc con người, và nhờ hoạt động tâm lý mà đối tượng ấy có thêm một hình thức thứ hai dưới dạng hình ảnh, biểu tượng, khái niệm. Như
vậy, đối t−ợng có ba trình độ: vật chất, hình ảnh - biểu t−ợng và khái niệm. Ba trình độ này tương ứng với ba trình độ phát triển tâm lý: tư duy cảm tính, tư duy giác tính và tư duy lý tính. ở
đây, t− duy bằng khái niệm là đạt đến t− duy lý tính, nghĩa là thuần tuý hoạt động trí óc. Trong dạy học ở tiểu học, đối t−ợng của hoạt động học của học sinh có thể là vật chất, vật thay thế, có thể là hình ảnh, biểu t−ợng và khái niệm.
Về hình thức là vật chất nh−ng bản chất là tinh thần (tuy gắn với vật chất) có thể là khái niệm. Đến trình độ này thì t− duy mang tính chất thuần khiết chỉ còn là thao tác logic của trí óc.