CHƯƠNG I NH ỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÀ PHÊ VÀ S Ự
1.1. Nh ững điều kiện cơ bản để phát triển cây cà phê
1.1.3. Điều kiện kinh tế
1.1.3.2. Cà phê Đắk Lắk biến thành hàng hóa
Ngay từ lúc thăm dò để chuẩn bị xâm chiếm Tây Nguyên, các nhà thám hiểm và truyền giáo Pháp đã sớm nhận ra vùng đất này không chỉ có vị trí địa lý chiến lược ở miền nam Đông Dương, mà còn có những tài nguyên hết sức quý giá có thể khai thác phục vụ chính quốc, trước hết là đất và rừng. Đặc biệt nơi đây có loại thổ nhưỡng mà các nhà thám hiểm như Yersin, Giám mục Cassaigne, Linh mục Pierre dourisboure... đều nhận định là loại đất tốt nhất thế giới, rất thích hợp cho việc mở các đồn điền trồng cây công nghiệp.
Vì vậy, để độc chiếm Tây Nguyên về chính trị và kinh tế, năm 1893 Khâm sứ Trung kỳ Bulôsơ (Boulloche) đã ra lệnh đặt vùng đất này “dưới sự bảo hộ đặc biệt” của Pháp, nhằm mục tiêu nắm toàn bộ vấn đề an ninh, tiến tới khai thác tài nguyên đất đai phục vụ chính quốc. Ngày 02/11/1901, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về “quyền bảo hộ và khai thác Tây Nguyên”, mở đường cho tư bản pháp vào lập đồn điền ở đây.
Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể (thiếu phương tiện và nhân công) nên ở Buôn Ma Thuột lúc bấy giờ chưa hình thành những đồn điền lớn, chủ yếu là lập một số nông trại quy mô vài chục mẫu để trồng thử nghiệm cây công nghiệp; trong đó cà phê (coffee) là những loại cây được đưa vào trồng thử nghiệm đầu tiên tại Buôn Ma Thuột [6, tr. 1]
Đến những năm 1912-1914, cây cà phê mới thực sự ghi dấu ấn tại Buôn Ma Thuột. Trong khoảng thời gian này hai công ty nông nghiệp lớn nhất Đắk Lắk đã được chính quyền Pháp cho phép thành lập, đó là công ty cao nguyên Đông Dương (Compagnie Des Hauts Plateaux Indochinois - CHPI) và công ty nông nghiệp An Nam (Compagnie Agricole D'asie - CADA). Hai công ty này bao chiếm tới 30.000 ha đất, trải dài trên một vùng đất bazan rộng lớn dọc hai bên quốc lộ 21 từ Buôn Ma Thuột đến km 34 đường đi Nha Trang, với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 66.000.000 phơ răng; trong đó diện tích cà phê trồng tập trung là 260 ha (CHPI là 135ha, CADA là 125ha) [2, tr. 30]
Ngày 12/2/1925, để tiếp tục hợp thức hoá việc khai thác đất đai ở Tây Nguyên, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về chế độ khai thác kinh tế ở Tây Nguyên, trọng tâm của nghị định này là định ra các nhượng địa (thực chất cướp không đất của người bản xứ) để cho tư bản Pháp vào đầu tư.
Tại các đồn điền này, cây cà phê đã được giới chủ Pháp đầu tư trồng ngày càng nhiều; quy mô lớn hơn cả chè, cao su, cây ăn trái và nhiều loại cây trồng khác.
Ngoài ra, có một người dân tộc Ê Đê (là thành viên của hội đồng kinh tế An Nam) tự mình khai phá 625 ha đất bazan và trồng thành công 125 ha cà phê [6, tr. 1]
Đến năm 1931, tổng diện tích cà phê ở Đắk Lắk (tập trung chủ yếu ở khu vực Buôn Ma Thuột) đã lên đến 2.130 ha (riêng đồn điền CADA là 1.000 ha) đứng thứ tư trong cả nước; trong đó 51% diện tích là cà phê chè, 33% cà phê vối, còn lại là cà phê mít. Việc trồng, chăm sóc cà phê trong các đồn điền ngay từ những năm này đã mang dấu ấn của lối canh tác công nghiệp và đạt trình độ tổ chức quản lý cũng như đầu tư thâm canh khá cao. Trong tài liệu “Địa chí tỉnh Đắk Lắk” viết năm 1930, ấn hành năm 1931, tác giả người Pháp Monfleur đã mô tả hoạt động của một số đồn điền như sau:
“Công ty nông nghiệp An Nam có một nhượng địa rộng 8.000 mẫu tây, khai thác được 1.800 mẫu, trồng cà phê 1.000 mẫu, chè xanh 800 mẫu, nằm ở cây số 24 đến cây số 34 đường an nam... có những cơ xưởng lớn sửa chữa máy móc, nhà để xe, kho tàng, nhà ở của giám đốc, chủ đồn điền, trưởng phòng nhân sự, tất cả đều rộng rãi, an toàn và có điện thắp sáng. Nơi ăn ở của công nhân bản xứ cũng được chăm sóc tốt, tập trung trong hai ngôi làng lớn là ea knuêk và ea yông; mỗi làng có chợ, trạm xá, nơi cung cấp nước đảm bảo sức khỏe cho công nhân.... Các đồn điền đều có triển vọng tốt đẹp, cây cà phê trồng và chăm sóc tốt, cao đều 1,4 mét, các đồi chè xanh gốc nam dương trồng vào tháng giêng năm 1921 vượt quá 2 mét”.
Lượng cà phê thu được lúc này tuy còn rất ít nhưng được đưa về chính quốc chế biến, tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao, ngoài sự mong đợi của các công ty Pháp.
Các nhà rang xay tại Pháp lúc bấy giờ đã đánh giá chất lượng và hương vị tự nhiên của cà phê Buôn Ma Thuột thơm đặc trưng và đậm đà hơn hẳn cà phê Bờ biển ngà
vốn đã nổi tiếng khắp châu Âu. Vì thế, nhiều nhà tư bản và chủ ngân hàng của Pháp quyết định đầu tư mở đồn điền ở Buôn Ma Thuột.
b. Trong thời kỳ Mỹ - Diệm
Từ sau hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ - Diệm đã có âm mưu khai thác tiềm năng kinh tế ở Tây Nguyên; Diệm muốn xây dựng Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung là trung tâm căn cứ quân sự quan trọng và ra sức khai phá tài nguyên, tiềm năng kinh tế, để phục vụ âm mưu xâm chiếm miền Nam.
Sau khi lập ra các địa điểm dinh điền, việc trồng cây cà phê đặc biệt được chú trọng. Ngày 22/2/1957, Ngô Đình Diệm đã tổ chức hội chợ kinh tế Buôn Ma Thuột, mục đích là để biến nơi đây thành một vùng kinh tế riêng biệt với đặc điểm nông nghiệp chủ yếu là trồng cà phê [13, tr. 12]. Nếu như vùng đất cao nguyên trung phần được chú trọng phát triển nông nghiệp và xếp theo thứ tự thì cà phê là sản phẩm đứng thứ hai sau chè, được đánh giá là sản phẩm then chốt của vùng đất này. Nếu năm 1958 chỉ có 3.000 ha cà phê thì đến năm 1959 đã có 49 đồn điền trồng cà phê ở khu vực Buôn Ma Thuột với tổng diện tích trên 5.200 ha [3, tr. 30].
Đến năm 1960 có nhiều tiểu điền được hình thành, trong khoảng thời gian này, cà phê chủ yếu được thu hái và xuất khẩu thô qua chính quốc. Kể từ thời Pháp thuộc cho đến trước năm 1975, cà phê là hàng hóa xuất khẩu của thuộc địa mà Đắk Lắk là một trong những vùng cung cấp nguồn hàng hóa này.
c. Sau 1975 đến nay
Sau ngày miền Nam giải phóng, tỉnh Đắk Lắk đã sớm quan tâm phát triển ngành sản xuất cà phê. Ngày 12/11/1975, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đắk Lắk ra quyết định trưng thu tài sản, đất đai của các đồn điền; đồng thời vận động 75 hộ cá thể hiến lại 1.196 ha cà phê; trên cơ sở đó thành lập các nông trường cà phê như:
Thắng Lợi, Ea Hồ, 10-3, Đức Lập do công ty quốc doanh nông nghiệp tỉnh trực tiếp quản lý. Đồng thời, một loạt các nông trường cà phê quốc doanh thuộc trung ương quản lý cũng ra đời trên địa bàn cùng với sự hợp tác của một số quốc gia trong khối Đông Âu (cũ) như Đức, Tiệp Khắc, Liên Xô (cũ) đã đến hợp tác để khai thác vùng cà phê với lợi thế đặc trưng về tự nhiên và danh tiếng vốn có của nó [4, tr. 28]
Năm 1986 ở Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986), Đảng đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội ở Việt Nam, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất
Ngày 28/01/1986 Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh đã tiến hành Hội nghị thảo luận và quyết định phương hướng nhiệm vụ năm 1986 là ưu tiên đẩy mạnh sản xuất nông – công nghiệp toàn diện, cũng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và các nông trường quốc doanh. Đại hội lần X của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, tháng 10 năm 1986, đã tiến hành mục tiêu đẩy mạnh phát triển các loại nông sản hàng hóa, thực hiện trồng mới 21.000 ha cà phê. Để đến năm 1990 đạt 50.000 ha, trong đó các đơn vị trung ương là 17.000 ha, địa phương là 33.000 ha [4, tr. 162]
Nhờ chính sách đổi mới kinh tế, tỉnh Đắk Lắk đã chủ trương đầu tư trồng mới, thâm canh rộng rãi trong nhân dân, hình thành các vùng chuyên canh cây cà phê lớn như ở huyện Krông Păk, Cư M’gar, Đăk Mil, Krông Năng … Các vùng chuyên canh này chiếm đến 86% diện tích và 89% sản lượng. Với phương châm ưu tiên vốn ngân sách nhà nước và địa phương cho phát triển cây công nghiệp xuất khẩu. Tỉnh Đắk Lắk tăng cường đầu tư cho hoạt động mở rộng diện tích, nâng cao sản lượng theo từng năm. Năm 1986 tỉ lệ vốn đầu tư chiếm 40,3%, đến 1987 là 46,9%, 1988 là 48,2% tổng số vốn ngân sách. Như vậy, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Đắk Lắk, phong trào trồng cây công nghiệp dài ngày, phục vụ cho xuất khẩu hàng hóa của Tỉnh ngày càng phát triển và đạt được những thành công bước đầu.
Tỉnh đã hình thành liên hiệp xí nghiệp đầu tư xuất nhập khẩu, liên hiệp đã trực tiếp kí đầu tư với các nông trường và các hộ gia đình, sản lượng cà phê tăng lên rõ rệt năm 1985 là 4.000 tấn; năm 1986: 5.000 tấn; năm 1988: 7.200 tấn.
Sản lượng cà phê tăng lên rõ rệt. Năm 1984 cà phê nhân đạt hơn 50%. Từ năm 1987 – 1989 toàn tỉnh trồng mới 22.000 ha cà phê, bước đầu tăng thu nhập cho người dân, một số huyện có diện tích cà phê tăng cao như:
- Huyện Krông Năng năm 1985 có 194 ha đến năm 1989 tăng lên 2.250 ha đạt sản lượng lên đến 600 tấn.
- Huyện Ea H’Leo năm 1985 có 85 ha, năm 1989 tăng lên 1.700 ha, sản lượng trên 300 tấn, huyện Lăk trước đây chưa có cà phê thì năm 1989 đã có 400 ha và đặc biệt là diện tích này là của chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số.
- Huyện M’Đrăk năm 1985 có 60 ha đến năm 1989 tăng lên 470 ha.
- Huyện Krông Nô trước đây chưa có cà phê năm 1989 trồng 320 ha. Cuối năm 1998, toàn tỉnh đạt diện tích trên 50.000 ha cà phê. Diện tích cà phê năm 1990 là 54.600 ha, đạt sản lượng 28.600 tấn gấp 5 lần so với năm 1985.
Cùng với số lượng, năng suất cây cà phê cũng tăng lên đáng kể những năm trước 1990 năng suất một ha cà phê bình quân chỉ đạt 8 tạ/ha thì đến năm 1994 năng suất bình quân là 18,5 tạ/ha, năm 2008 là 25 tạ/ha.
Ngoài ra tỉnh còn thực hiện hợp tác với nước ngoài trong đầu tư phát triển cho cà phê, công tác thâm canh và trồng mới từ năm 1986 đến năm 1990, phát triển phong trào kinh tế vườn trong đồng bào các dân tộc, khoảng 13.000 hộ có vườn cà phê thu hoạch lên đến hàng ngàn tấn.
Bên cạnh đó còn tiến hành xây dựng các cụm kinh tế, khai thác thế mạnh tại các vùng chuyên canh cây công nghiệp nhờ vậy diện tích cà phê năm 1995 là 130.000ha, đưa vào kinh doanh hơn 65.000ha, sản lượng 133.000 tấn, tăng gấp 5 lần so với 1990.
Nhìn chung sau năm 1986, thì cây cà phê ngày một phát triển mạnh, nhất là cà phê vối, cùng với việc tăng nhanh về diện tích, sản lượng cà phê đã đem lại lợi ích to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk. Kết quả đạt được của những năm đầu đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đã đánh dấu sự tiến bộ rõ rệt trong thực hiện ba chương trình kinh tế lớn của Đảng, tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện phát triển nông lâm nghiệp toàn diện, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, lấy lương
thực là bàn đạp, nông – lâm xuất khẩu là mũi nhọn dựa trên thế mạnh cây công nghiệp”[4.tr.173]