CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG DÂN CƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống dân cư thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Vị trí địa lý, phạm vi, điều kiện tự nhiên
TP. Hồ Chí Minh có tọa độ 10o10’B – 10o38’B và 106o22’Đ – 106o54’Đ. Nằm ở giữa vùng Đông Nam Bộ trù phú, tiếp giáp với phía nam của miền Đông Nam Bộ và là miền Bắc của Tây Nam Bộ. Phía Bắc giáp Bình Dương, phía Tây Bắc giáp Tây Ninh, phía Đông và Đông Bắc giáp Đồng Nai, phía Đông Nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp Long An và Tiền Giang.
Nằm ở phía Nam của đất nước, TP. Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội 1.730km theo đường bộ. Được ví như hòn ngọc Viễn Đông, từ TP. Hồ Chí Minh có thể đến hầu hết thủ đô của các nước Đông Nam Á với chiều gần 2.000km.
TP. Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng cả về đường bộ, đường thủy và đường hàng không nối liền các tỉnh trong vùng và còn là cửa ngõ quốc tế. Từ TP. Hồ Chí Minh có thể dễ dàng và nhanh chóng để đến các nước trong khu vực như: Thái Lan, Campuchia, Inđônêsia…bằng đường biển, đường bộ và đường hàng không. Đây là lợi thế để các doanh nghiệp nước ngoài đến TP. Hồ Chí Minh đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân, góp phần nâng cao CLCS người dân.
2.1.1.2. Phạm vi thành phố
Theo Niên giám Thống kê 2011, diện tích toàn thành phố là 2.095,01km2 chiếm hơn 6,36% diện tích cả nước. Trong đó gồm 494,01km2 nội thành và 1.601km2 ngoại thành là một trong những tỉnh thành có số dân đông nhất cả nước. Gồm 19 quận, 5 huyện, 259 phường, 58 xã, 5 thi trấn. (bảng 2.1)
2.1.1.3. Điều kiện tự nhiên
Địa hình :
Những đặc điểm chính của địa hình: Thấp dần từ Bắc (Củ Chi) xuống Nam (Cần Giờ) và từ Đông sang Tây, chia thành 3 tiểu vùng chính:
- Khu vực gò đồi lượn sóng: nằm ở Bắc, Tây và Tây Bắc (Củ Chi, Hóc Môn và Quận 9), có độ cao trung bình 10 - 25m, cao nhất là khu Long Bình (32m, quận 9)…
- Khu vực trũng ở phía Nam, Tây Nam và Đông Nam: (bao gồm toàn huyện Cần Giờ, một phần huyện Nhà Bè, Bình Chánh, Quận 8, Quận 7) có độ cao từ 0,5 đến 2m.
- Khu đất đồng bằng: bao gồm khu vực nội thành cũ, quận 12, một phần huyện Hóc Môn, quận 2 có độ cao trung trung bình từ 5 - 10m.
Nhìn chung địa hình TP. Hồ Chí Minh không phức tạp, song cũng khá đa dạng với gò đồi, đồng bằng phù sa, và vùng ven biển ngập mặn nên có điều kiện để phát triển kinh tế về nhiều mặt. Ngoài các quận trung tâm với tốc độ đô thị hóa cao, các huyện và quận ngoại thành vẫn phát triển được nông nghiệp và lâm nghiệp, góp phần giải quyết việc làm cho vùng nông thôn, tạo ra lương thực và thực phẩm, nâng cao chất lượng bữa ăn, đảm bảo một phần thực phẩm cho thành phố.
Khí hậu :
Nằm trong khu vực có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo nhưng do gần biển (cách biển 50 km) nên khí hậu thành phố mang tính chất hải dương, điều hoà hơn các tỉnh lân cận.
Có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa: từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Tác động chi phối đến môi trường cảnh quan.
Nhiệt độ: Thành phố có số giờ nắng trung bình từ 6 - 8 giờ/ngày nên nhận được một nhiệt năng cao. Lượng bức xạ dồi dào trung bình khoảng 140 kcal/ cm2 năm, số giờ nắng trung bình tháng 4.740 giờ.
Nhiệt độ trung bình năm là: 270C, tháng nóng nhất vào tháng 4 (28,90C) và mát nhất vào tháng 12 (25,70C). Có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung bình 25 - 280C. Độ ẩm trung bình hàng năm là 79,5%. Độ ẩm cao nhất về mùa mưa có thể lên đến 100%, mùa khô xuống chỉ còn 74,5%.
Làm thay đổi nhanh quá trình phân huỷ chất hữu cơ chứa trong các chất thải, giảm ô nhiễm môi trường đô thị.
Lượng mưa: Cao, trung bình hàng năm là 1.949mm, năm cao nhất 2.718 mm (1908), năm thấp nhất 1.392 mm (1958) nhưng phân bố không đều cả trong không gian và thời gian.
Hơn 90% lượng mưa tập trung vào các tháng mùa mưa, cao nhất tháng 6, 9 (khoảng 320mm), thấp nhất tháng 2 (45 mm).
Số ngày mưa trung bình trong năm là 159 ngày.
TP. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi 2 hướng gió: gió mùa Tây - Tây Nam và Đông - Đông Bắc.
TP. Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão nhưng năm 1997 do biển động (hiện tượng ELNino) gây nên cơn bão số 5 phá huỷ nhẹ một phần huyện Cần Giờ.
Đặc điểm khí hậu trên thuận lợi phát triển sản xuất nông nghiệp với cơ cấu cây trồng đa dạng, năng suất cao, phát triển các vành đai rau phục vụ nhu cầu người dân, đời sống sinh hoạt của nhân dân được ổn định, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai.
Sông ngòi:
TP. Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Sông Đồng Nai: Dài khoảng 586 km, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên ở độ cao khoảng 1.770 m do sông Đa Nhim và sông Đa Dung hợp thành. Sau khi tiếp nhận nguồn nước của sông La Ngà ở tả ngạn và sông ở hữu ngạn, sông Đồng Nai vượt qua ghềnh thác Trị An uốn khúc qua Biên Hoà để vào thành phố, gặp sông Sài Gòn tại Nhà Bè là nguồn nước tưới tiêu quan trọng cho thành phố.
Sông Sài Gòn: Dài 210 km, bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quản chảy qua tỉnh Tây Ninh, Sông Bé đổ vào thành phố ở Củ Chi và xuyên qua thành phố trên chiều dài 106 km.
Có độ dốc trung bình 45 cm/km, lòng sông khá rộng từ 225 - 370 km và sâu tới 20 m, có nhiều nhánh phụ (Láng The, Rạch Tra…) nên có tác dụng điều hoà lũ lụt và nguồn nước tưới quan trọng hiện nay cho phía bắc thành phố. Mùa lũ lưu lượng trung bình 171 m3/s nhưng mùa cạn chỉ còn 15, 20 m3/s nên không đủ đáp ứng số lượng nước tưới trong mùa khô.
Sông Nhà Bè: lại phân ra nhiều chi lưu bao quanh huyện Cần Giờ để đổ ra biển. Về phía trái đổ ra cửa Soài Rạp dài 59 km, lòng sông cạn, nước chảy chậm. về phía phải theo sông Lòng Tàu đổ ra vịnh Gành Rái, sông dài 56 km, bề rộng trung bình 0,5 km, lòng sông sâu, là đường thuỷ chính cho tàu bè ra vào cảng Sài Gòn. Ngoài các sông chính, trên thành phố Hồ Chí Minh còn có nhiều kênh rạch chằng chịt nhất là ở huyện Cần Giờ.
Hệ thống kênh rạch ở thành phố: khá chằng chịt, tập trung nhiều ở Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn, Nam Thủ Đức, Cần Giờ vừa nối với hệ thống sông rạch Thành phố vừa nối với hệ thống sông rạch Cửu Long nên giữ vai trò quan trọng trong việc tiêu thoát nước, vận chuyển hàng hoá, thuỷ lợi. Một số kênh rạch chính như: rạch Bến Nghé, rạch Thị Nghè, Lò Gốm, kinh Tẻ, kinh Tham Lương, kinh Thầy Cai, kinh Thái Mỹ, kinh An Hạ…
- Hệ thống sông rạch thành phố chịu ảnh hưởng của thuỷ triều (bán nhật triều) xâm nhập vào, sâu nhất vào tháng 4 và tùy theo mùa, tùy theo con nước, tùy theo khối lượng nước đổ xuống từ thượng nguồn, nước mặn (khoảng 4%o) từ biển Đông nên hình thành 3 vùng:
*Vùng nước ngọt: Gồm phía Bắc nội thành, phía Bắc Thủ Đức, Quận 9, Hóc Môn, Bình Chánh, Bình Tân, Củ Chi.
*Vùng nước lợ: Phía Nam Củ Chi, Thủ Đức, phía Bắc Cần Giờ.
*Vùng nước mặn: Một số xã ở Cần Giờ ra đến biển.
Nguồn nước ngầm thành phố: Tập trung ở phía bắc Củ Chi, Hóc Môn, nơi có tầng nước ngầm dồi dào nhất, phẩm chất cũng tốt nhất, ở độ sâu 60,90 m. Ngoài ra còn có ở các quận: 3, 5, 11, Bình Thạnh, Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp nhưng phẩm chất không tốt bằng.
Càng về phía Nam (Nhà Bè, Bình Chánh, Cần Giờ nguồn nước ngầm thường bị nhiễm mặn nặng).
Nguồn nước có vai trò quan trọng cho tưới tiêu trong nông nghiệp, phát triển ngư nghiệp, cải thiện đời sống và phát triển các vùng nông nghiệp cho thành phố. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt là điều kiện thuận lợi phát triển giao thông, giao lưu giữa với các tỉnh lân cận, quá trình buôn bán của các tiểu thương diễn ra dễ dàng.
Địa chất- đất đai:
Đất đỏ vàng: Chiếm 1,5% diện tích đất trồng có ở Thủ Đức, Quận 9, Hóc Môn, Củ Chi, thường là đất cát pha, nghèo mùn nhưng để trồng cây cho thức ăn gia súc (bắp, khoai lang, khoai mì), cây công nghiệp ngắn ngày, hoa quả.
Đất xám: Chiếm 19,4% diện tích, phát triển trên phù sa cũ, phân bố ở phía Bắc Củ Chi, Bắc Thủ Đức, Hóc Môn, Bắc Bình Chánh. Đất nhiều mùn, mịn thường sử dụng trồng rau màu, lúa, cây công nghiệp ngắn ngày.
Đất phù sa ngọt: Chiếm 2,6% phân bố ở Bình Chánh, Thủ Đức và các quận ven nội thành, đây là loại đất tốt nhất được khai thác lâu đời, cày, cấy 3,4 vụ xen canh quanh năm, tạo nên vùng nông nghiệp trù phú nhất thành phố.
Đất phèn: Chiếm tới 38% phân bố ở phía Bắc Cần Giờ, Bình Chánh, Thủ Đức, Củ Chi, Hóc Môn…có khả năng lớn về nông nghiệp nhưng phải cải tạo nhiều.
Đất mặn: Chiếm 12,3% tập trung ở Cần Giờ, một phần nhỏ ở Nam Bình Chánh, Nhà Bè…
Đất cồn cát bãi biển: Chiếm 3,2% phân bố ở Cần Giờ hiện đang được khai thác để trồng mãng cầu dai, táo, dưa hấu và rau màu.
Đất đai là cơ sở phát triển nông nghiệp, đa dạng các loại cây trồng nhiệt đới, tạo việc làm cho người nông thôn. Kết hợp với kỹ thuật tiên tiến có thể đảm bảo được thực phẩm cho thành phố.
Đất trồng thành phố tuy nhiều (trên 110.000 ha) chiếm 14% diện tích thành phố và đa dạng nhưng nhìn chung nghèo chất dinh dưỡng, đòi hỏi phải được cải tạo và quy hoạch lại để có thể sử dụng hợp lý theo hướng thâm canh, chuyên môn hoá. Ngoài ra còn có hơn 36.000 ha đất lâm nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam Cần Giờ (rừng ngập mặn) rừng nhiệt đới ẩm ở Củ Chi, Thủ Đức, Hóc Môn…
Tài nguyên sinh vật:
TP. Hồ Chí Minh có 3 kiểu rừng:
- Rừng mưa nhiệt đới xanh quanh năm: Gồm nhiều tầng rậm rạp, dây leo chằng chịt, thường phát triển trên các vùng đất cao. Hiện nay mật độ che phủ rừng thấp, nay chỉ còn đồi trọc, cỏ tranh, cây bụi che phủ. Phân bố chủ yếu ở Tây, Tây Bắc huyện Củ Chi.
- Rừng Sác: Phát triển trên những vùng đất thấp ngập mặn ở cửa sông, rất rậm rạp với 50 loài cây đặc trưng: đước, bần, măm, dừa nước… hiện đang được trồng nhiều trên 25.000 ha ở Cần Giờ, vốn là rừng nguyên sinh, trong thời Pháp thuộc còn là rừng cấm, nhưng trong thời gian chống Mĩ rừng này đã bị bom đạn Mĩ và chất độc màu da cam tàn phá năng nề.
- Rừng ngập mặn: Cần Giờ khoảng 25.000 ha, đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam.
Ngoài hệ thống rừng, vùng biển Cần Giờ có nhiều tôm, cá là nguồn lợi của thành phố Hồ Chí Minh về biển.
Sinh vật có nhiều giá trị về mặt kinh tế, đầu tiên, hệ thống thực vật, rừng là lá phổi cho toàn thành phố, cải thiện môi trường sống cho người dân. Trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Cần Giờ có sự đa dạng sinh học, là điểm tham quan, tìm hiểu, học tập và nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước tạo ra nguồn thu nhập cho người dân địa phương.
Sự đa dạng về động vật tạo cho ngành ngư nghiệp phát triển, cải thiện đời sống cho ngư dân TP. Hồ Chí Minh.
Các loại động thực vật sống thành quần thể theo môi trường sinh sống tạo nên những hệ sinh thái cân bằng hoàn chỉnh của rừng Sác, đồng bưng, đồng lúa, miệt vườn…Hiện nay bị con người tàn phá (nhiều nguyên nhân) làm biến đổi cả hệ sinh thái.
Khoáng sản :
Chủ yếu là khoáng sản phi kim loại như: sét, cát sỏi, đất đá xây dựng tập trung ở quận 9, Thủ Đức (làm gạch ngói, gạch trang trí, đá rửa, đá xây dựng, đá ong, đất đỏ, sạn, sỏi để đắp đường).
Ngoài ra có: -Sét trắng: làm đồ gốm, gạch ngói ở Củ Chi, Bình Chánh.
- Cát: (làm thuỷ tinh) ở Tân Bình.
- Cát xây dựng: ở Thủ Đức, Củ Chi, Hóc Môn.
- Than bùn: ở Cần Giờ, Nhà Bè.
Tuy quy tụ không lớn nhưng khá đa dạng và đồng bộ trên một số khu vực, thuận lợi cho việc khai thác và sử dụng, tạo điều kiện cho ngành xây dựng phát triển với các công trình đẹp, kiến trúc hiện đại.
Khoáng sản góp phần phát triển công nghiệp, có vai trò khá khiêm tốn trọng việc tạo nguồn nguyên liệu cho thành phố nhưng phần nào cũng tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Tóm lại, điều kiện tự nhiên có những thuận lợi để TP. Hồ Chí Minh phát triển một nền kinh tế với đầy đủ các ngành nghề, đặc biệt thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân ở nông thôn và vùng ngoại thành.