CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG DÂN CƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.2. Thực trạng chất lượng cuộc sống dân cư TP. Hồ Chí Minh
2.2.1. Thu nhập bình quân đầu người
Thu nhập
Cùng với sự chuyển mình của cả nước sau thời kỳ đổi mới, kinh tế của TP. Hồ Chí Minh đã có những bước phát triển và đột phá đáng kể. Tổng sản phẩm toàn thành phố tăng qua các năm và liên tục giữ vị trí cao nhất cả nước, thể hiện vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế của quốc gia. (bảng 2.5)
Về tốc độ phát triển, bình quân giai đoạn 2001 - 2005 là 11,0%, giai đoạn 2006 - 2010 là 11,2%. Tổng sản phẩm năm 2011 tăng hơn 6 lần năm 2002. Về cơ cấu: tỷ trọng của ngành dịch vụ chiếm cao nhất 54,3% và tăng qua các năm, tỷ trọng ngành công nghệp - xây dựng là 44,5% có xu hướng ổn định, nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất 1,2%
và giảm dần. Điều này phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế của thành phố, sự phát triển nhanh của công nghiệp và dịch vụ đã góp phần quan trọng cho việc tăng trưởng tổng sản phẩm của thành phố. Đây cũng là cơ sở để thu nhập bình quân đầu người ở thành phố luôn cao hơn mức trung bình của cả nước.
Bảng 2.5. Tổng sản phẩm TP. Hồ Chí Minh qua các năm Năm Tổng sản phẩm toàn thành phố theo giá thực tế (tỷ đồng)
2002 84.852
2004 113.326
2006 165.297
2008 229.197
2010 422.270
2011 512.721
Nguồn: NGTK 2011- Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh Thu nhập bình quân đầu người của thành phố tăng qua các năm, đặc biệt tăng mạnh vào giai đoạn 2008 - 2010. Theo điều tra mức sống dân cư thì thu nhập bình quân đã tăng lên 3 lần trong gia đoạn 2002 - 2010. (bảng 2.6)
Bảng 2.6. Thu nhập bình quân đầu người của TP. Hồ Chí Minh (theo giá thực tế)
Năm 2002 2004 2006 2008 2010
Thu nhập bình quân đầu
người ( đồng/tháng) 904.100 1.164.800 1.480.000 2.192.000 2.737.000
Nguồn: NGTK 2011- Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh So với vùng Đông Nam Bộ, thu nhập bình quân đầu người của TP. Hồ Chí Minh thấp hơn Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương (theo PPP), tuy nhiên lại lớn hơn Hà Nội (4.047 USD/người/năm). Điều này cũng dễ hiểu, so với vùng Đông Nam Bộ sự phát triển của thành phố Vũng Tàu và thành phố mới Bình Dương thì thành phố Hồ Chí Minh có sự chênh lệch về phát triển công nghiệp. Thêm vào đó, sự gia tăng của dân nhập cư thiếu trình độ.(
biểu đồ 2.3)
Biểu đồ 2.3. Thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ năm 2010 (theo PPP)
Mặc dù tốc độ gia tăng dân số có xu hướng giảm nhưng chậm qua các năm (5,3%).
Tổng sản phẩm quốc dân có tốc độ tăng trưởng mạnh và cao nhất 438,03%, kéo theo đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng 302,73% so với năm 2002. TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2000 - 2010 nhận được nhiều dự án đầu tư nên tổng sản phẩm quốc dân tăng mạnh, các công ty đầu tư ở Việt Nam đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh đã giải quyết được một lượng lớn việc làm cho lao động, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên so với sự tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân thì sự tăng trưởng của thu nhập bình quân còn thấp. (biểu đồ 2.4).
Tốc độ tăng dân số phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì mới đảm bảo phát triển bền vững. Nếu tốc độ tăng trưởng dân số là 1% thì tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 3% thì đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Chỉ số phát triển dân số của thành phố là 1,69%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế là 10,3% (2011), hai chỉ số này phù hợp và tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, sự tăng trưởng dân số ở thành phố chủ yếu là do dân nhập cư trong độ tuổi lao động, đây là độ tuổi tạo ra của cải vật chất cho xã hội là đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, mặt khác, với lượng lớn dân nhập cư không có trình độ chuyên môn là sức ép lớn cho việc giải quyết việc làm cũng như đảm bảo CLCS cho người dân. Vì vậy, mặc dù tốc độ tăng trưởng sản phẩm quốc dân cao, tăng mạnh nhưng thu nhập bình quân đầu người tăng khá khiêm tốn.
Biểu đồ 2.4. Tốc độ tăng trưởng gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và tổng sản phẩm quốc dân của TP. Hồ Chí Minh
Sự phát triển kinh tế của một quốc gia biểu hiện qua sự phồn thịnh của cuộc sống nhân dân. Quốc gia giàu mạnh là quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao. TP. Hồ Chí Minh có thu nhập bình quân cao và tăng qua các năm tuy nhiên thu nhập có sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Có thể thấy rằng đối với TP. Hồ Chí Minh cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và ngành nghề đã quyết định đến thu nhập. Ở khu vực thành thị cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất hiện đại, tiên tiến, với ngành nghề chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ nên thu nhập bình quân đầu người cao. Khu vực nông thôn với ngành nghề chủ đạo là nông – lâm - ngư nghiệp và dịch vụ nông nghiệp nên thu nhập thấp hơn.
Do sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, nâng cao vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ nên thu nhập của người dân chủ yếu từ tiền lương, tiền công và các ngành nghề phi nông nghiệp. Tỷ trọng thu nhập từ tiền lương và tiền công là cao nhất, chiếm 58,9% tổng thu nhập, tỷ trọng thu nhập từ nông - lâm - thủy sản là thấp nhất 1,1%. Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã giảm đi vai trò của ngành nông nghiệp. (bảng 2.7)
Bảng 2.7. Cơ cấu thu nhập bình quân đầu người chia theo nguồn thu của TP. Hồ Chí Minh năm 2010
Đơn vị: % Thu nhập bình quần đầu người/tháng
Tiền lương, tiền công 58,9
Nông, lâm, thủy sản 1,2
Phi nông, lâm, thủy sản 27,2
Thu từ nguồn khác 12,7
Nguồn: NGTK 2011- Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh Sự chênh lệch thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị ngày càng giảm đi trong những năm gần đây nhưng vẫn còn chậm (năm 2000 chênh lệch 1,79 lần, năm 2010 là 1,49 lần). Sự tăng lên về thu nhập mạnh và nhanh ở khu vực nông thôn, giai đoạn 2002 - 2010 tăng 5,26 lần, trong khi khu vực thành thị chỉ tăng 2,92 lần. Nguyên nhân giảm sự chênh lệch về thu nhập ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn là do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn đã đi theo hướng tích cực làm đời sống nhân dân được cải thiện, khởi sắc. (biểu đồ 2.5).
Biểu đồ 2.5. Thu nhập bình quân đầu người một tháng phân theo thành thị, nông thôn của thành phố Hồ Chí Minh.
Chênh lệch thu nhập và phân hóa giàu nghèo
Sự phân hóa thu nhập là tất yếu dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo trong dân cư. Toàn thành phố chia ra 5 nhóm thu nhập (nhóm 1: nghèo, nhóm 2: cận nghèo, nhóm 3: trung bình, nhóm 4: giàu, nhóm 5: rất giàu), sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm là rất lớn và ngày càng gia tăng. Năm 2002 sự chênh lệch giữa nhóm 1 và nhóm 5 là 6,2 lần thì năm 2010 là 6,7 lần. Mặc dù thu nhập của 5 nhóm dân cư đều tăng qua các năm, nhưng nhóm dân cư thứ nhất chỉ tăng gấp đôi, trong khi nhóm thứ 5 tăng lên gấp 4 trong giai đoạn 2002 - 2010. Như vậy, người giàu và nghèo càng chênh lệch nhau về mức thu nhập.
Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, lao động tập trung vào các ngành nghề dịch vụ và công nghiệp với mức thu nhu nhập cao khi có tay nghề và chuyên môn kỹ thuật, còn nhóm lao động vào thành phố chưa qua đào tạo, tay nghề không có đã tạo nên sức ép lớn cho thành phố.(bảng 2.8)
Trong thời kỳ kinh tế khó khăn, sự gia tăng chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư càng lớn hơn. Các doanh nghiệp đóng cửa, xa thải bớt nhân sự đã đẩy hàng ngàn lao động vào cảnh thất nghiệp. Chính trong thời kỳ này, nhóm 1 sẽ là nhóm chịu nhiều ảnh hưởng nhất khi giá cả tăng về mọi mặt mà lương bị giảm sút rất nhiều.
Bảng 2.8. Thu nhập bình quân đầu người/tháng của dân cư TP. Hồ Chí Minh chia theo các nhóm
Đơn vị: nghìn đồng
2002 2004 2006 2008 2010
Nhóm 1 316,4 430,8 554 827 965,2
Nhóm 2 525,2 635,4 824 1.183 1.541,7
Nhóm 3 721,6 879 1.078 1.542 2.018,2
Nhóm 4 1.008,8 1.219 1.493 2.140 2.726,7
Nhóm 5 1.951,7 2.668,3 3.453,0 5.252,0 6.429,0
Nguồn: NGTK 2011- Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh Hơn nữa để thấy rõ hơn sự bất bình đẳng trong thu nhập tác giả đã thành lập đường Lorenz về thu nhập của thành phố Hồ Chí Minh năm 2010. Qua biểu đồ ta thấy đường cong có sự thu hẹp dần về phía đỉnh, sự chênh lệch giữa các nhóm dân cư từ nhóm 1 đến nhóm 4 không lớn lắm, chỉ có sự chênh lệch lớn giữa nhóm 4 và nhóm 5. Như vậy, 80% dân số từ nhóm 1 đến nhóm 4 có thu nhập thấp và bình đẳng, trong khi đó 20% số hộ của nhóm 5 nhưng chiếm tới 47,9% tổng thu nhập. (biểu 2.6).
Biểu đồ 2.6. Đường Lorenz về thu nhập của TP. Hồ Chí Minh năm 2010
Chi tiêu
Sự tăng lên về thu nhập là nguyên nhân dẫn đến sự tăng lên về chi tiêu của người dân. Trung bình chi tiêu một người dân trong một tháng là 2.058.000 đồng, chiếm 75,1%
thu nhập bình quân. Mức chi tiêu ở thành thị gấp 1,6 lần nông thôn. Chi tiêu ở cả hai khu vực đều tăng lên tỷ lệ thuận với thu nhập, so với năm 2002 chi tiêu của khu vực thành thị tăng gấp 2,95 lần, trong đó khu vực nông thôn tăng lên 4,2 lần. Có thể thấy rằng, CLCS ở nông thôn đang dần được cải thiện đáng kể với sự tăng lên về thu nhập cũng như chi tiêu.
Trong đó, khoản chi hàng tháng cho ăn, uống hút chiếm tỷ trọng cao nhất 47,96%. Mặc dù về giá trị tuyệt đối chi cho ăn, uống, hút tăng lên nhưng về tỷ trọng có xu hướng giảm xuống. Khi nhu cầu về ăn, uống, hút đã đạt được ở mức tương đối thì con người quan tâm đến những vấn đề khác của đời sống như y tế, giáo dục, may mặc… Tỷ trọng chi cho ăn, uống, hút càng giảm thì mức sống của người dân càng tăng. Đây là cũng là một chi tiêu đánh giá CLCS dân cư. Tỷ trọng này của thành phố thấp hơn mức trung bình cả nước (54,8%), thấp hơn vùng Đông Nam Bộ (48,5%). Trong khi đó, chi cho giáo dục có xu hướng tăng dần qua các năm, đạt 8,84%. Chứng tỏ CLCS dân cư TP. Hồ Chí Minh hiện nay đang được nâng lên rõ rết.
Bảng 2.9. Cơ cấu chi tiêu đời sống bình quân một người một tháng chia theo thành thị, nông thôn thành phố Hồ Chí Minh
Đơn vị: % Thành thị Nông thôn
Chi ăn, uống, hút 46,30 60,79
Chi may mặc 3,33 2,08
Chi nhà ở, điện nước, vệ sinh 8,90 6,09
Chi thiết bị, đồ dùng 6,80 4,44
Chi y tế, chăm sóc sức khỏe 3,38 3,73
Chi đi lại và bưu điện 13,23 13,05
Chi giáo dục 9,53 3,51
Văn hóa thể thao, giải trí 2,92 0,93
Chi khác 5,61 5,45
Nguồn: NGTK 2011- Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh Cơ cấu chi tiêu ở hai khu vực cũng có sự chênh lệch, nếu như ở thành thị chỉ dành 46,3% khoản chi cho ăn uống, hút thì khu vực nông thôn dành tới 60,74%. Sự tiến bộ trong thu nhập dẫn đến sự tiến bộ trong chi tiêu, nhưng qua cơ cấu chi tiêu dễ dàng nhận thấy, đời sống ở nông thôn vẫn còn hạn chế rất nhiều so với khu vực thành thị, các khoản chi cho ăn, uống, hút còn quá lớn. Vấn đề ăn, uống, hút vẫn còn là đều quan tâm rất lớn, vì vậy chi tiêu cho các khoản khác bị thu hẹp và thấp. (bảng 2.9)
So sánh khu vực thành thị và nông thôn, thấy rõ nhất đó là sự chênh lệch khoản chi cho ăn, uống, hút và chi cho giáo dục. Ở thành thị chi cho giáo dục rất lớn và gấp 3 lần nông thôn. Khi đời sống được cải thiện, các vấn đề về dinh dưỡng được đảm bảo thì sẽ quan tâm đến những vấn đề khác, đặc biệt là giáo dục, đây là một trong các chỉ tiêu muốn đạt đến của con người. Qua đó cũng thấy được sự quan tâm cho giáo dục ở nông thôn còn rất hạn chế vì
thu nhập hàng tháng còn thấp và các khoản chi cho các vấn đề khác còn lớn, đặc biệt là ăn, uống.
Để đánh giá mức nghèo và xác định tỷ lệ hộ nghèo thường dựa vào thu nhập bình quân một người một tháng của hộ và thu nhập bình quân này có sự thay đổi theo thời gian.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2004, 2006, 2008 tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010 điều chỉnh theo trượt giá:
Năm 2004: 170 ngàn đồng/tháng đối với khu vực nông thôn, 220 ngàn đồng/tháng đối với khu vực thành thị.
Năm 2006: 200 ngàn đồng/tháng đối với khu vực nông thôn, 260 ngàn đồng/tháng đối với khu vực thành thị.
Năm 2008: 290 ngàn đồng/tháng đối với khu vực nông thôn, 370 ngàn đồng/tháng đối với khu vực thành thị.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 và 2011 tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011 - 2015 như sau:
Năm 2010: 400 ngàn đồng/ tháng đối với khu vực nông thôn, 500 ngàn đồng/tháng đối với khu vực thành thị.
Năm 2011: 480 ngàn đồng/ tháng đối với khu vực nông thôn, 600 ngàn đồng/tháng đối với khu vực thành thị.
Nếu xét hộ nghèo theo mức thu nhập trên thì tỷ lệ hộ nghèo của TP. Hồ Chí Minh năm 2011 là 0,1%, coi như đã thoát nghèo trên bình diện quốc gia. Tuy nhiên, TP. Hồ Chí Minh có chuẩn nghèo riêng và xét trên nhiều khía cạnh. Giai đoạn 2005 - 2010, chuẩn nghèo là dưới 6 triệu đồng/người/năm, tức dưới 500 ngàn/người/tháng. Chuẩn nghèo giai đọan 2011 - 2015 là dưới 12 triệu đồng/người/năm đối với khu vực thành thị và dưới 10 triệu đồng/người/năm. Theo chuẩn nghèo mới này, tính đến nay, toàn thành phố có khoảng 172 nghìn hộ nghèo; trong đó có hơn 3.000 hộ có thu nhập bình quân dưới 6 triệu đồng/người/năm. Như vậy, số hộ nghèo của thành phố đã tăng hơn 50 lần không phải vì suy giảm kinh tế mà vì nâng chuẩn nghèo.
Tính đến cuối năm 2008, Chương trình Xóa đói giảm nghèo đã trải qua 2 giai đoạn (1992 - 2003 và 2004 - 2010), với 6 lần điều chỉnh nâng mức chuẩn nghèo cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Từ 121.722 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 17%
tổng số hộ dân thành phố vào năm 1992, đến năm 1995 thành phố đã không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 13,5%. Năm 2003, khi kết thúc giai đoạn 1, số hộ nghèo chỉ còn 1.655 hộ,
chiếm 0,15%; hoàn thành mục tiêu trước thời hạn 2 năm so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VII. Năm 2004, thành phố tiếp tục triển khai Chương trình Xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2 theo lộ trình 2 bước, tiêu chí hộ nghèo cũng được nâng cao hơn - thu nhập bình quân dưới 6 triệu đồng/người/năm không phân biệt khu vực nội thành và ngoại thành; với mục tiêu là cơ bản không còn hộ nghèo vào cuối năm 2010.
Qua 5 năm triển khai giai đoạn 2, tổng số hộ nghèo theo tiêu chí mới giảm từ 89.090 hộ vào đầu năm 2004 chỉ còn 2.754 hộ vào cuối năm 2008; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 7,72%
xuống chỉ còn 0,2%; đưa thành phố hoàn thành mục tiêu “cơ bản không còn hộ nghèo”
trước hạn 2 năm so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần VIII đề ra. Cùng với việc nâng cao thu nhập, điều kiện sống của người nghèo nói riêng và nhân dân thành phố nói chung ngày càng được cải thiện thông qua các chương trình, công trình, dự án đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và các chế độ, chính sách an sinh xã hội khác.
Với chức năng là trung tâm kinh tế lớn hàng đầu cả nước, TP. Hồ Chí Minh cơ bản đã xóa đói giảm nghèo thành công. Sự phát triển năng động ở đây đã làm cho thu nhập của người dân tăng lên vì vậy, chuẩn nghèo của thành phố cũng tăng lên so với mức trung bình của nước.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố hiện nay là 9,4%. Ngoài thu nhập, khi xét đến nghèo đô thị cần quan tâm đến các vấn đề khác như: nơi ở, tiếp cận các dịch vụ và cơ sở hạ tầng, nhà ở bấp bênh... tỷ lệ hộ nghèo có sự chênh lệch và khác nhau ở các quận, huyện. Trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, tỷ lệ hộ nghèo ở các quận nội thành và các huyện ngoại thành là khác nhau: tỷ lệ hộ nghèo ở nội thành là khoảng 8%, trong khi đó ở ngoại thành là 30%. Hơn nữa, sự phân bổ này theo dạng vết dầu loang với tâm nằm ở các quận trung tâm lịch sử (Quận 1, Quận 3, Quận 5…) nơi có tỷ lệ hộ nghèo khoảng 4% đến 6%, sau đó đến các quận gần khu Trung tâm như Quận 10, Quận 11, Quận 8, Quận Phú Nhuận, Quận Gò Vấp…và cuối cùng là đến các quận ven như Thủ Đức, Quận 9, 12 và 2 nơi có tỷ lệ hộ nghèo khoảng từ 10% đến 20%. Còn các huyện ngoại thành thì tỷ lệ hộ nghèo cao hơn khoảng trên 20% (hình 2.2). Tính chất nghề nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập cũng là ảnh hưởng đến tỷ lệ hộ nghèo. Hộ nghèo và người nghèo là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi cũng như hứng chịu mọi ảnh hưởng của các hiện tượng xã hội (lạm phát, dịch bệnh…) cũng như tự nhiên (ô nhiễm, biến đổi khí hậu..).