THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM
2.2 Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam
2.2.2 Thực trạng cơ chế điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam
Giai đoạn 1989 – 1992: tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng đô la Mỹ tăng liên tục, đỉnh cao là năm cuối năm 1991, tỷ giá VND/USD là 14.450 VND/USD. Diễn biến tỷ giá trong giai đoạn này không chỉ nói lên khoảng cách tỷ giá của nh à nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do mà còn phản ánh xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng đô la. Năm 1990 giá trị đồng đô la v ào cuối năm đã tăng 50% so với đầu năm và tiếp tục tăng trong năm 1991. Tình trạng này đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng đô la nhằm h ưởng chênh lệch giá. Giai đoạn này ngân hàng không kiểm soát được lưu thông tiền tệ. Do thiếu đô la các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu lãi suất cao, đô la thiếu lại càng thiếu dẫn đến cơn sốt đô la theo chu kỳ trong giai đoạn n ày. Đến đầu năm 1992, chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều hành tỷ giá ( như buộc các doanh nghiệp có đô la phải gửi vào ngân hàng, bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá theo nhóm hàng…) đã làm cho giá đồng đô la giảm.
Bảng 2.3: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam qua các năm 1989 – 1992 Tỷ giá VND/USD
Năm Giá nhà nước Giá thị trường tự do Tăng(giảm)
Lạm phát(%)
1989 4200 4570 + 8,8 34,7
1990 6560 7550 +13,5 67,5
1991 12720 12550 - 0,02 68
1992 10720 10550 - 0,02 17,5
Nguồn: IMF và tạp chí khoa học ngân hàng
Bảng số liệu trên cho thấy tỷ giá VND/USD có khuynh h ướng tăng và được nhà nước điều hành sát với thị trường tự do, nhà nước đã bắt đầu thả nổi tỷ giá và điều này gây nên những bất ổn cho nền kinh tế.
Giai đoạn 1993 – 1996 : ngân hàng nhà nư ớc công bố tỷ giá chính thức và biên độ dao động nhưng mang tính cố định. Do kết quả can thiệp của nh à nước vào thị trường ngoại tệ cuối năm 1992, tỷ giá dần ổn đ ịnh làm cho lượng ngoại tệ đầu cơ ở các doanh nghiệp được tung ra hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời do có lượng kiều hối chuyển về khoảng 300 – 400 triệu đô la làm cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá hối đoái ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến các đại lý lợi dụng danh nghĩa nhà nước để buôn bán trục lợi, các ngân h àng không thu mua đư ợc lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn này. Tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ l ưu hành trong nước, mặt khác làm gia tăng các giao d ịch trên thị trường chợ đen bất hợp pháp, tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh.
Việc ngân hàng nhà nước khống chế chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán là cứng nhắc làm cho tỷ giá vận hành ngoài quan hệ cung cầu và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân h àng thương mại hoạt động theo đúng quan hệ nội tại của nó
kiểm soát, chính phủ đã thay đổi cơ chê điều hành tỷ giá như quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức đ ược công bố bởi ngân h àng nhà nước; tăng cường sức mạnh các biện pháp hành chính (buộc các đơn vị kinh tế có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng nhà nư ớc theo tỷ giá quy định). Những biện pháp can thiệp trên phần nào cũng xóa được tâm lý găm giữ ngoại tệ, làm giảm đô la và tỷ giá được ổn định cho những năm tiếp theo, tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường chợ đen biến động tương đối sát gần nhau.
Bảng 2.4: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam qua các năm 1993 – 1996 Tỷ giá VND/USD
Năm
Giá nhà nước Tăng (giảm)
Lạm phát(%)
1993 10.835 100 5,2
1994 11050 1,98 14,4
1995 11040 0 12,7
1996 11060 0,18 4,5
Nguồn: IMF và tính toán
Trong giai đoạn này tỷ giá chính thức của nh à nước và tỷ giá tự do không chênh lệch nhiều nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nh à nước làm cơ sở phân tích. Qua bảng chúng ta nhận thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào qua hệ cung cầu ngoại tệ (tình trạng nhập siêu gia tăng)
Giai đoạn 1997 – 1999: Ngân hàng nhà nư ớc liên tục điều chỉnh tỷ giá chính thức cùng với biên độ trong giai đoạn này tuy không làm thay đổi về cơ bản chế độ tỷ giá nhưng đã đưa chế độ tỷ giá bán thả nổi tới gần cực thả nổi h ơn so với giai đoạn 1992 – 1997. Trong giai đoạn này, cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực Châu Á đã gây ảnh hưởng đến tâm lý xã hội đẩy tỷ giá tăng mạnh, nhu cầu mua lớn hơn nhu cầu bán ngoại tệ.
Chế độ tỷ giá linh hoạt từ 1999 đến nay: c ơ chế điều hành tỷ giá của ngân hàng nhà nước chủ yếu được công bố theo tín hiệu thị tr ường: lấy mức tỷ giá bình quân hình
thành trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó và cộng trừ một biên độ hẹp cho các ngân hàng thương mại kinh doanh. Đây là chế độ tỷ giá mới linh hoạt hơn và mang tính thị trường hơn, phản ánh đúng hơn quan hệ cung cầu ngoại tệ của thị trường
Nhìn chung cơ chế tỷ giá ở nước ta đã có nhiều thay đổi phù hợp với quá trình hội nhập.Trong tình hình hiện nay, mọi sự thay đổi mạnh về tỷ giá VND/USD đều làm mất tính ổn định của khu vực tài chính.
Bảng 2.5: Tỷ giá giao dịch VND/USD bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng qua các năm
Năm Tỷ giá (VND/USD) Tăng (giảm) tỷ giá so với năm trước (%)
Tỷ lệ lạm phát (%)
1997 11.131 + 0,9 3,6
1998 12.247 +10,03 9,2
1999 13.789 +12,59 0,1
2000 14.173 + 2,78 -0,6
2001 14.807 + 4,48 0,8
2002 15.254 + 3,02 4
2003 15.486 + 1,52 3
2004 15.707 + 1,43 9,5
2005 15.821 + 0,73 8,4
2006 15.971 + 0,94 6,6
2007 16.125 + 0,97 12,6
2008 16.357 + 1,43 22
Nguồn: IMF và tính toán tổng hợp
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy tỷ giá VND/USD tăng trong thời gian vừa qua là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do hậu quả của nhiều năm điều hành chính sách tỷ giá xa rời quy luật thị trường trong một thời kỳ nền kinh tế đóng cửa khá d ài. Do đó, Việt Nam đồng bị đánh giá cao hơn giá tr ị thực của nó.
Thứ hai, sự mất cân đối giữa cung cầu ngoại tệ do giá đồng đô la tăng phổ biến trên thị trường thế giới gây sức ép mạnh lên tỷ giá trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng.
Thứ ba, tình hình thâm hụt cán cân thanh toán xuất nhập khẩu ch ưa được cải thiện, xuất khẩu gặp khó khăn về thị tr ường, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất cao.
Thứ tư, cơ chế quản lý ngoại hối còn nhiều bất cập, dự trữ ngoại tệ nhỏ ch ưa đủ để điều tiết thị trường ngoại tệ trong nước.
Thứ năm, đô la hóa ngày càng diến biến phức tạp do nhiều nguyên nhân đặc biệt là tâm lý găm giữ đô la chờ lên giá của dân chúng và tâm lý sợ rủi ro tỷ giá (đây là thói quen có tính chất lịch sử do Việt Nam đồng mất giá liên tục nhiều năm liền).
Hiện tại Việt Nam đang cố định tỷ giá USD/VND, nh ưng đứng trước hai vấn đề: (1) bản thân đồng đô la mất ổn định hơn trước nhiều và việc cố định tỷ giá VND vào đồng đôla trong hoàn cảnh như vậy có thể có hại nhiều h ơn có lợi; (2) các yếu tố như thâm hụt cán cân thương mại, cán cân vãng lai, lạm phát cao làm cho VND có xu hướng giảm giá so với các ngoại tệ và như vậy việc cố định tỷ giá cứng nhắc quá có thể dẫn đến khủng hoảng ở một thời điểm n ào đó như đã từng xảy ra ở nhiều n ơi. Việc cố định tỷ giá với ngoại tệ mạnh là hình thức chính phủ đứng ra đảm bảo đồng tiền nội tệ, giúp cho nó ổn định và kinh tế dễ phát triển. Tuy nhiên nó cũng làm nảysinh các mầm mống dẫn đến khủng hoảng nh ư: các doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ quá nhiều, phát triển nóng và đầu cơ quá nhiều, một lượng tiền lớn từ nước ngoài đổ vào là tiền đầu cơ ngắn hạn. Kèm theo với thâm hụt ngân sách chính phủ và nợ nước ngoài lên cao thì đến một lúc nào đó dự trữ ngoại tệ giảm đến mức báo động, hệ thống tài chính có dấu hiệu lung lay, các nh à đầu tư hay đầu cơ nước ngoài mất niềm tin đồng loạt rút vốn
(và hơn nữa còn bán khống đồng tiền bản địa), dẫn đến khủng hoảng tiền tệ khi mà đồng tiền mất giá đến một nửa so với đồng đôla trong vòng một thời gian rất ngắn và dễ kéo theo sự sập đổ của hệ thống ngân hàng và nhiều doanh nghiệp khác. Hiện tại, giá đô la ở các ngân hàng Việt Nam khoảng 16900VND và giá tự do khoảng 17200VND, nhưng giá đô la trong các forward contracts (hợp đồng đổi ngoại tệ cho tương lai) đã lên đến 20.000 VND. Những khó khăn của nền kinh tế (ví dụ nh ư giảm đầu tư nước ngoài, thâm hụt cán cân vãng lai, giảmdự trữ ngoại tệ, nợ xấu trong ngân hàng, khó khăn của các doanh nghiệp, giảm độ tin cậy) là những yếu tố đẩy tỷ giá USD/VND đi lên.
Việc neo giữ tỷ giá VND/USD quá lâu, không đúng với diễn biến của thị tr ường hối đoái quốc tế trong khi đô la giảm giá mạnh trong hơn hai năm qua là nguyên nhân quan trọng gây nên lạm phát cao hiện nay. Bởi vì việc neo ghìm giữ tỷ giá VND/USD quá lâu cũng làm cho hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam tăng giá, góp phần gây nên lạm phát.
Nhìn chung, chính sách tỷ giá hối đoái hiện na y cơ bản hợp lý. Đối với nền kinh tế mới hội nhập như Việt Nam thì một chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước là phù hợp vì chúng ta chưa đủ điều kiện để áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi ( hệ thống ngân hàng đang trong quá trình đổi mới còn yếu kém; thị trường hối đoái đang trong giai đoạn sơ khai, dự trữ ngoai tệ nhà nước còn thấp; ngân hàng nhà nước chưa phối hợp chặt chẽ các chính sách và các biện pháp điều hòa cung ứng tiền tệ trong nước, các cá nhân, tổ chức thanh toán qua ngân hàng còn ở mức độ thấp; việc điều hành chính sách tỷ giá đúng đắn còn phụ thuộc rất lớn vào chính sách huy động vốn đặc biệt là vốn nước ngoài…). Tuy nhiên, xét v ề lâu dài chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước phải được giảm dần theo thời gian để tiến tới áp dụng một chế độ thả nổi hoàn toàn hoạt động theo quy luật cung cầu thị tr ường.
Trên đây chúng ta đã xem xét thực trạng cung - cầu ngoại tệ và thực trạng chính
ngoại hối là hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân h àng nhà nước ta. Thực trạng hoạt động quản lý ngoại hối ở n ước ta như sau: