THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM
2.2 Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam
2.2.5. Kết quả điều tra nghiên cứu thực tế
2.2.5.2 Biểu hiện đô la hóa tại Việt Nam
Đô la hóa ở Việt Nam được biểu hiện dưới nhiều hình thức mà trong đó đồng đô la Mỹ được sử dụng phổ biến trong giao dịch thanh toán tại các đ ơn vị và hoạt động của người dân . Cụ thể như sau:
Tại các doanh nghiệp đ ược điều tra (50 doanh nghiệp) có 22 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (thép, may mặc, đồ gỗ, nhựa, linh kiện điện tử) có tỷ lệ giao dịch đồng đô la th ường xuyên bình quân chiếm trên 90% và các doanh nghiệp còn lại có tỷ lệ giao dịch đồng đô la bình quân là 43%. Hầu hết các doanh nghiệp đều có nhu cầu giao dịc h đồng đô la để thanh toán hàng hóa, nhập máy móc nguyên vật liệu từ nước ngoài hoặc thu nhập đô la từ xuất khẩu h àng hóa. Đặc biệt có 2 công ty du lịch nước ngoài, 3 sân golf có doanh thu và chi trả lương cho nhân viên ch ủ yếu là đô la. Nhu cầu giao dịch về đô la tại các doanh nghiệp rất lớn vì phải thanh toán theo yêu cầu của đối tác. Khi doanh nghiệp cần đô la, thời điểm ngân h àng có đô la, các doanh nghiệp thuộc loại ưu tiên 1,2,3 (đây là các doanh nghi ệp xuất nhập khẩu lớn) được ưu tiên giải quyết trước, sau đó mới đến các doanh nghiệp còn lại. Mặc dù việc mua đồng đô la một cách hợp pháp để dùng cho việc giải quyết nợ ngoại tệ hoặc thanh toán quốc tế thực tế không dễ d àng đối với các doanh nghiệp vì phải phụ thuộc vào mức dự trữ ngoại tệ của các ngân h àng thương mại. Ngoài ra, khi giao dịch, ngân hàng tính theo giá niêm yết của thị trường liên ngân hàng theo quy đ ịnh của Nhà nước
nhau như phí tư vấn, phí dịch vụ...Trong tr ường hợp ngân hàng không cung cấp đủ đô la thì khi doanh nghiệp có nhu cầu họ phải thông qua thị tr ường chợ đen (tiệm kinh doanh vàng bạc, nhà môi giới, các doanh nghiệp khác) với mức giá bình quân cao hơn mức giá niêm yết tại các hệ thống ngân hàng từ 400 – 700 VND/USD, có thời điểm lên đến 1.500 VND/USD. Hầu hết (100%) các doanh nghiệp không chọn hình thức vay đô la tại các hệ thống ngân hàng vì lo sợ rủi ro về tỷ giá và đến hạn thanh toán không tìm ngủ nguồn đô la và phải chịu giá cao ở thị tr ường chợ đen. Điều này cũng cho thấy đồng đô la ở nước ta không được kiểm soát chặt chẽ và còn nhiều hạn chế nên được phát triển mạnh ở thị trường chợ đen.
Tại các tiệm kinh doanh vàng bạc, kinh doanh xe ô tô, linh kiện điện tử, cửa hàng thời trang, việc giao dịch đô la rất phổ biến và lượng đô la được giao dịch này không thể thống kê được. Các tiệm kinh doanh vàng bạc mua bán đô la để h ưởng chênh lệch giá và lợi nhuận. Đây là nguồn cung cấp đô la khá lớn và phổ biến cho thị trường. Thông qua vô số các cửa hàng mua bán vàng tư nhân trên toàn qu ốc, bất cứ ai cũng có thể mua hay bán đô la. Phần lớn l ượng đô la mua theo cách n ày được sử dụng cho mục đích cất trữ, tiết kiệm của cải và thanh toán giao dịch. Lượng đô la giao dịch qua hệ thống này nhà nước không kiểm soát đ ược. Đối với các sản phẩm kinh doanh khác (linh kiện điện tử, ô tô, rượu ngoại...vì hàng hóađược nhập từ nước ngoài nên các đơn vị này niêm yết và tính theo đô la. Đồng đô la được phát triển trong điều kiện này chủ yếu do người dân ưa chuộng hàng ngoại khi tiêu dùng và thanh toán hàng hóa bằng đô la theo giá của thị trường chợ đen, có một số ít doanh nghiệp tính theo giá liên ngân hàng. Từ đó cho thấy các giao dịch về đô la rất phổ biến ở thị tr ường chợ đen vì tính tiện lợi, nhanh chóng, không cần bất cứ thủ t ục nào ngoài việc phải chịu chi phí cao hơn. Điều này cũng giải thích rõ hầu hết các ý kiến cho rằng khi có đô la sẽ bán ở thị trường chợ đen (97%). Nh ư vậy, đồng đô la chưa được kiểm soát chặt chẽ mặc dù hành vi này là vi phạm pháp luật theo luật ngoại hối của Việt Nam.
Tại các hệ thống ngân hàng, thanh toán giao dịch bằng đô la Mỹ thông qua các hoạt động như: bán đô la Mỹ cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu thu mua đô la Mỹ, nhận tiền gửi và cho vay đô la. Bên c ạnh đó còn có hoạt động đầu tư cho vay đô la Mỹ trong nước và chính hoạt động này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng đồng đô la Mỹ trên nhiều loại thị trường. Điều này không những làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp, tăng rủi ro của khực tài chính mà còn góp phần đẩy nhanh quá trình đô la hóa bằng cách tính lãi suất bằng đồng đô la đối với các khoản vay này.Việc thanh toán lãi suất bằng đồng đô la tạo thêm nhu cầu ngoại tệ và phá hoại ngầm sự ổn định của đồng nội tệ. Ngay tại ngân h àng Đông Á ở thành phố Hồ Chí Minh, đơn vị có công ty dịch vụ kiều hối lớn nhất, các thủ tục giao dịch ngoại hối đ ơn giản và khách hàng không phải chịu thêm bất cứ khoản phí nào. Điều này tạo điều kiện cho tính thanh khoản của đồng đô la cao và dễ dàng lưu thông. Tuy nhiên, theo k ết quả điều tra hầu hết nguồn đô la tại các ngân hàng thương mại phải chờ đăng ký và mua của ngân hàng nhà nước, từ doanh nghiệp bán (rất ít vì họ dự trữ để thanh toán, chủ yếu chỉ gửi), từ cá nhân bán mà như đã phân tích ở trên chủ yếu qua thị trường chợ đen vì giá thu mua cao hơn nên ngân hàng rất bị động về nguồn đô la. Ngân h àng Nhà nước và các ngân hàng thương mại không kiểm soát được lượng đô la giao dịch thực tế. Mặc d ù theo quy định cá nhân muốn thực hiện thanh toán quốc tế bằng đô la phải mua từ ngân hàng và cung cấp đầy đủ giấy tờ chứng minh hợp pháp việc thanh toán nh ưng do chênh lệch giữa giá bán ngoại tệ tại các cửa hàng vàng bạc và ngân hàng thương mại nên trường hợp mang sẵn một lượng đô la đến ngân hàng yêu cầu chuyển ra nước ngoài để thanh toán đều được chấp nhận.
Đối với các cá nhân nguồn thu đô la chủ yếu là kiều hối và tiền của công dân làm việc ở nước ngoài chuyển về. Ngoài ra, các cá nhân Việt Nam còn có nguồn thu đô la do làm việc tại các đại sứ quán, lãnh sự quán nước ngoài hoạt động tại Việt Nam trả lương, ngoại tệ chuyển qua biên giới của những người đi du lịch, các thủy thủ, phi
được chuyển qua nhiều kênh và không thể thống kê được. Đối với các khoản chi đôla của các cá nhân chủ yếu là hình thức thanh toán tiền mua hàng hóa, vé máy bay, du học, du lịch, tiền lương làm việc tại doanh nghiệp nước ngoài. Phần lớn ý kiến (58%) cho biết rất yên tâm về chất lượng khi hàng hóa được niêm yết bằng đô la. Người dân có nguồn đô la chủ yếu từ nguồn kiều hối và cá nhân mua; một số ít tham gia kinh doanh và đầu cơ ngoại tệ ( 4%) vì lo sợ sự mất giá của Việt Nam đồng và kỳ vọng đồng đô la tăng, phần còn lại đa số ( 70% ) cho biết nếu có tài sản sẽ chọn cất trữ vàng.
Việc sử dụng đồng đô la cũng khá phổ biến ở người dân đã làm tăng tính thanh khoản của đồng tiền này. Ngoài ra, việc niêm yết giá bằng ngoại tệ khiến cho ng ười dân bị thiệt hại khi thanh toán tiền mua hàng hóa vì các đơn vị áp dụng tỷ giá không thống nhất. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy lượng đô la của các cá nhân là rất lớn nhưng lại xảy ra nghịch lý là khu vực dân cư dư thừa đô la trong khi các khu vực khác trong nền kinh tế vẫn phải huy động nguồn vốn từ b ên ngoài. Lượng đô la thặng dư này được người dân nắm giữ dưới hai hình thức gửi tại hệ thống ngân hàng và nắm giữ bằng tiền mặt. Tuy nhiên, người dân gửi vào ngân hàng chủ yếu dưới dạng tiết kiệm ngoại tệ đã hạn chế khả năng của các ngân h àng thương mại trong việc bán trên thị trường ngoại hối hay bán cho ngân h àng nhà nước. Trên thực người dân vẫn lưu hành tiền mặt đô la trong lưu thông và sử dụng rộng rãi trong các giao dịch vì họ cho rằng có thể tự do bán ngoại tệ của mình cho các cửa hàng kinh doanh vàng bạc và thu đổi ngoại tệ và mua lại khi cần thay vì bán cho hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, nhiều người dân, các tổ chức kinh doanh vàng bạc hiểu pháp luật nhưng lại không thực thi pháp luật. Điều này cho thấy công tác tuyên truyền pháp luật chưa có hiệu quả, dân chúng chưa nắm được các quy định của pháp luật.
Mặc dù, đô la hóaở Việt Nam được đánh giá ở mức độ một phần theo tiêu chí về tỷ lệ tiền gửi trên tổng khối lượng tiền với mức dao động từ 20 - 25 %. Đây là mức vừa phải theo tiêu chí đo lường mức độ đô la hóa của IMF ( từ 15 % – 30 % ) chưa nguy hại cho nền kinh tế và đồng đô la được nhà nước kiểm soát nghiêm ngặt. Tuy
nhiên, thực tế việc đồng đô la đ ược sử dụng phổ biến v à nhà nước không kiểm soát được lượng đô la trong dân cư như phân tích ở trên cho thấy nguy cơ đô la hóa sẽ tăng cao đặc biệt trước xu thế hội nhập nền kinh tế. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ đô la hóa ở nước ta đã ở mức từ 30% trở lên và đang có xu hướng gia tăng. Đây là mức nguy hại cho nền kinh tế. Để tìm hiểu các nhân tố tác động và nguyên nhân của đô la hóa ở nước ta, chúng tôi tiến hành phân tích các nhân tố sau :