Sử dụng công cụ bộ ba bất khả thi

Một phần của tài liệu Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp (Trang 87 - 90)

3.2 Giải pháp kiểm soát hiện tượng đô la hóa

3.2.1. Sử dụng công cụ bộ ba bất khả thi

Nội dung: Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc ba mục tiêu chính sách vĩ mô:

Ổn địnhtỷ giá Tự do hóa dòng vốn Chính sách tiền tệ độc lập

Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong 3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nh ưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống nh ư Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một

Tự do hóa dòng vốn

Ổn định tỷ giá

Chính sách tiền tệ độc lập

chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát v ốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống nh ư Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999.

Như vậy, áp dụng bộ ba bất thi vào tình hình thực tế của nước ta nhằm mục tiêu kiểm soát đô la hóa. Chúng ta nhận thấy:

Khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hoạt động thương mại, dịch vụ và giao dịch hàng hóa phát triển, nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng (như đã phân tích ở chương 2) và việc kiểm soát dòng vốn này rất khó khăn, phức tạp và rất khó để có được một hệ thống kiểm soát vốn có hiệu quả. Khi dòng vốn nước ngoài vào nhiều, để ổn định tỷ giá Ngân h àng Nhà nước mua ngoại tệ, qua đó gây áp lực lạm phát. Việc kiểm soát dòng vốn theo quy định của Pháp lệnh Ngoại hối thì Việt Nam đã tự do hoá giao dịch vãng lai, cũng có giao dịch vốn ch ưa được tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối. Do đó, ứng dụng bộ ba bất khả thi trong điều kiện hiện nay ở nước ta là sự lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định (nhằm kiểm soát lạm phát) tức là chọn yếu tố tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập. Tuy nhiên, đối với các thị trường mới nổi như Việt Nam nơi mà thị trường tài chính và tiền tệ còn kém phát triển thì việc áp dụng bộ ba bất khả thi để giải quyết hợp lý các yếu tố kinh tế vĩ mô sẽ gặp nhiều khó khăn không thể đạt được cùng một lúc hai mục tiêuổn định lạm phát vàổn định tỉ giá (tỉ giá mục tiêu) nên vấn đề đặt ra hiện nay đối với Việt Nam là phải lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá nào là thích hợp trong quá trình hội nhập kinh tế vừa ổn định kinh tế vĩ mô nói chung, vừa kiểm soát đô la hóa nói riêng.

Nhìn từ thực trạng của Việt Nam trong năm 2007- 2008, ngân hàng nhà nư ớc đã có sự can thiệp trái chiều: tung tiền đồng ra để mua vào đô la nhưng mặt khác lại tăng

dự trữ ngoại hối để phòng ngừa khi có bất trắc xảy ra và giảm giá Việt Nam đồng để kích thích xuất khẩu nên đã muađô la vào. Ngân hàng đãđưa một lượng tiền đồng khá lớn vào nền kinh tế đã gây áp lực gia tănglạm phát. Để giảm bớt áp lực này, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện rút tiền về bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10% thì theo ước tính sẽ có khoảng 40.000-50.000 tỉ đồng, tương đương với số tiền bỏ ra để mua 3 tỷ đôla nêu trên, quay trở lại kho của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, thoạt nhìn hai biện pháp can thiệp được đưa ra, ít nhất ba mục tiêu đã đạt được gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng đ ược lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng lại không gây áp lực lạm phát . Tuy nhiên, đây là một nghịch lý:

Trong giai đoạn này, Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế cần một l ượng vốn lớn để đầu tư phát triển, nhiều dự án, công trình đang chờ vốn, nhiều doanh nghiệp đang cần vốn để gia tăng hoạt động kinh doanh. Khi tăng dự trữ bắt buộc lúc này không những làm cho chi phí đầu ra của ngân hàng và doanh nghiệp gia tăng mà sự khan hiếm vốn cũng xảy ra và sẽ đẩy các ngân hàng vào một cuộc đua lãi suất mới gây bất lợi cho nền kinh tếmà cụ thể đã xảy ra tháng 3/2008.

Nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái thì ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua ngoại tệ trong tr ường hợp dòng tiền được đưa vào nền kinh tế quá nhiều. Ngược lại, phải bán bớt một l ượng ngoại tệ để thu Việt Nam đồng v ào. Trong trường hợp này tính độc lập của chính sách tiền tệ hay việc điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát sẽ không được đảm bảo vì cung tiền không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền ra vào quyết định. Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách tiền tệ độc lập vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá khi tài khoản vốn đãđược tự do.

Từ tình hình và đặc điểm kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và lạm phát đang gia tăng như hi ện nay, việc lựa chọn c ơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ để kiểm soát đô la hóa gặp nhiều khó

khăn. Điều đó cũng cho thấy không thể lựa chọn c ơ chế tỷ giá thả nổi ngay lập tức mà cần phải có lộ trình cụ thể để đảm bảoổn định thị trường tài chính dài hạn.

Mặc dù lạm phát là mục tiêu quan trọng hàng đầu, song do tính tác động chủ yếu của tỷ giá đến lạm p hát và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, nên lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hướng tới bình ổn thị trường tài chính hơn là hướng tới kiềm chế lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế.

Với thực trạng về mức độ phát triển thị tr ường ngoại hối, thị trường tiền tệ như hiện nay thì cơ chế điều hành tỷ giá khống chế biên độ như hiện nay là hợp lý. Chính vì vậy, trong lựa chọn chính sách vĩ mô để kiểm soát đô la hóa trước mắt trong một vài năm tới, chính phủ cần nới rộng biên độ tỷ giá ở một mức độ phù hợp có kiểm soát sẽ có hiệu ứng tốt cho nền kinh tế, một biên độ tỷ giá linh hoạt này làm cho người bán và người mua dễ dàng gặp nhau và người dân sẽ yên tâm không lo sợ đồng nội tệ mất giá.

Tuy nhiên, chính sách này khi Nhà nư ớc đưa ra phải rõ ràng, tránh tình trạng “tâm lý đẩy” dẫn đến đầu cơ. Đồng thời, thực hiện đồng loạt các biện pháp khác để kiềm chế lạm phát, như thắt chặt tiền tệ thông qua kiềm chế tăng tr ưởng tín dụng, hạn chế chi tiêu công, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư... mà hiện Chính phủ đang chỉ đạo trong 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát trongnăm 2008.

Một phần của tài liệu Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp (Trang 87 - 90)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(111 trang)