Xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại thời kì Đổi mới (1986- 1995)

Một phần của tài liệu Qúa trình phá vây trong quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1986 1995 (Trang 25 - 36)

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-1995 . 10

1.3 Xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại thời kì Đổi mới (1986- 1995)

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) và những bước đi đầu tiên hình thành đường lối đối ngoại mới

Vào giữa những năm 80 của TK XX, vấn đề đặt ra với đối ngoại Việt Nam là phá vỡ thế bao vây cấm vận, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công

1 POW (Prisoners of War) và MIA (Missing in Action) là vấn đề tù binh Mỹ và người Mỹ bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam

cuộc đổi mởi kinh tế, phát triển đất nước, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước những yêu cầu cấp bách của tình hình trong nước và thế giới, Đảng và Nhà nước đã từng bước đổi mới tư duy và xây dựng đường lối đối ngoại mới. Ngay từ giữa năm 1986, nhận rõ

“những khả năng để giữ vững hòa bình”, Nghị quyết 32 của BCT (7-1986) nêu rõ nhiệm vụ trên mặt trận đối ngoại là “kết hợp tốt nhất sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á, góp phần tích cực giữ vững hòa bình thế giới… tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất cho việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [75, tr.45]. Nghị quyết nêu cách tiếp cận mới trong bối cảnh thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, xác định rõ chủ trương và điều chỉnh chính sách ngoại giao: “chủ động chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hòa bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác”

[8, tr.323 . Để thực hiện mục tiêu hàng đầu của Đổi mới là phát triển kinh tế, Đảng chủ trương hoạt động đối ngoại của ta phải phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.

Đại hội lần thứ VI (12-1986) chính thức đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có lĩnh vực đối ngoại. Đảng đã xác định công tác đối ngoại có vai trò quan trọng trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng được thể hiện ở việc Đại hội VI đánh giá đúng đắn về vai trò của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và xu thế hợp tác kinh tế trong quan hệ quốc tế: “cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất…” [20, tr.34].

Trên cơ sở xem xét tình hình thực tiễn, Đảng đã đề ra chủ trương: “kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị” [20, tr.111] với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Từ đó, Đảng xác định

nhiệm vụ, phương châm đối ngoại do Đại hội VI đề ra nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu tổng quát, mục tiêu bao trùm của của cách mạng nước ta trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó trước hết nhằm vào vấn đề cấp bách là ổn định tình hình kinh tế - xã hội để tạo ra những tiền đề cần thiết cho những chặng đường tiếp theo.

Thực hiện nhiệm vụ trên, Đại hội đã hoạch định chính sách cụ thể đối với từng quốc gia và khu vực. Đại hội tuyên bố ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô và các nước XHCN vì hòa bình, loại trừ vũ khí hạt nhân, thiết lập một hệ thống an ninh quốc tế toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Đại hội tiếp tục coi: “đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng” [20, tr,105] trong quan hệ ngoại giao nên vẫn chủ trương ưu tiên hàng đầu cho quan hệ Việt – Xô. Chủ trương này một phần xuất phát từ những nhận còn mang tư tưởng tập hợp lực lượng trên cơ sở ý thức hệ và tư duy của thời kì trật tự thế giới hai cực. Thực tế, Đại hội VI vẫn còn có những đánh giá chưa phản ánh đúng những diễn biến phức tạp của công cuộc cải cách và cải tổ ở các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô khi cho rằng “hệ thống XHCN tiến vào giai đoạn phát triển mới với chất lượng mới” [20, tr.32 . Chính “những thành tựu mọi mặt của cộng đồng XHCN, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập trên thế giới” [20, tr.32]

Bên cạnh đó, Đảng thể hiện “mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác”, “phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với Inđônêxia và các nước Đông Nam Á khác” [20, tr.114 . Theo đó, Việt Nam chủ trương: “phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương” [20, tr.106 . Đối với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với

Trung Quốc bất cứ nơi nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu, nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”. Cũng trong thời gian này, Đảng cũng xác định nhiệm vụ bình thường hóa quan hệ với Mỹ: Việt Nam tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á [20, tr.115].

Như vậy, Đại hội VI đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện của đất nước, nhất là đổi mới tư duy, trong đó có tư duy đối ngoại. Tuy nhiên, đường lối đối ngoại được đề ra từ Đại hội VI mới chỉ đặt nền móng cho quan hệ đối ngoại trong bước đầu đổi mới nên nó không tránh khỏi những hạn chế nhất định so với diễn biến tình hình lúc đó, đặc biệt là “chưa đổi mới chính sách tập hợp lực lượng” [62, tr.6]

Điều chỉnh chiến lược đối ngoại trong Nghị quyết 13 BCT (1988)

Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20-5-1988, BCT khóa VI ra Nghị quyết số 13/NQ-TW về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Đây là lần đầu tiên BCT ra Nghị quyết riêng về công tác đối ngoại, cho thấy sự nhận thức sâu sắc đối với ý nghĩa của chính sách đối ngoại trong thực hiện Đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết này thể hiện những đổi mới chiến lược trong chỉ đạo hoạt động đối ngoại như “tư duy, mục tiêu công tác đối ngoại, phương thức đấu tranh và chính sách tập hợp lược lượng, thay đổi hẳn về quan niệm bạn thù” [62, tr.6]. Nghị quyết nhấn mạnh: “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữa vững hòa bình để tập trung và phát triển kinh tế” [56, tr.245 , “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn” [62, tr.6 . Do đó, Nghị quyết đã chuyển trọng tâm từ coi trọng an ninh sang ưu tiên phát triển kinh tế và coi trọng phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế.

Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng quyết định: “chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu hiện nay sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình” với tất cả các đối tác chính [62, tr.6]. Trong quan hệ quốc tế cần phải phải “thêm bạn bớt thù”, ra sức tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập Việt Nam về kinh tế, chính trị” [50, tr.71]. Trên tinh thần này, Đảng chủ trương không coi nước nào là “hòn đá tảng”, “đối lập” hay “kẻ thù” trong chính sách đối ngoại của ta nữa” [62, tr.6 . Trong chính sách đối với các quốc gia và khu vực cụ thể, Nghị quyết nêu rõ chủ trương góp phần giải quyết vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, cải thiện quan hệ với các nước trong tổ chức ASEAN, mở rộng quan hệ với các nước Tây – Bắc Âu, Nhật Bản, Australia; thiết lập quan hệ với Thị trường chung châu Âu.

Cùng với việc xác định mục tiêu và các chủ trương lớn về đối ngoại trong tình hình mới, Hội nghị 13 BCT đã chủ trương rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Campuchia trước thời hạn dự định một năm, coi đây là giải pháp phá bỏ những rào cản và sự bao vây cô lập về chính trị của thế giới.

Nhìn chung, Nghị quyết 13 của BCT khóa VI đã thể hiện rõ sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới về các vấn đề như nhận định về tình hình thế giới và khu vực, về quan hệ chính trị quốc tế, về mục tiêu đối ngoại, về an ninh và phát triển… Những chủ trương chuyển hướng đối ngoại của Hội nghị 13 BCT đã đặt nền móng cho đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam. Vì vậy, nhiều học giả coi đây “là bước chuyển biến chiến lược đối ngoại cơ bản của Việt Nam” [26, tr.31] và là mốc quan trọng đánh dấu đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ sau năm 1975.

Tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại trong các Đại hội và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1991 đến năm 1995

Đầu những năm 90 của TK XX, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động lớn tác động đến Việt Nam. Các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt. Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) đã họp và đề ra nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là: “vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [20, tr.267 . Để thực hiện mục tiêu này, Đại hội xác định trọng tâm của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hoàn bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với tình hình quốc tế, Đại hội nhận định rằng trong đời sống chính trị - kinh tế quốc tế, bên cạnh lợi ích mang tính chất giai cấp, mang ý thức hệ giữa các quốc gia dân tộc, các quốc gia cần phải phối hợp, hợp tác với nhau để giải quyết những vấn đề quốc tế. Vì vậy, nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới được xác định là: “giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [20, tr.294 . Đảng nêu rõ chủ trương “hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” [20, tr.294].Trên cơ sở từ đường lối đối ngoại chung, Đại hội VII đã tiến thêm một bước khi chuyển từ phương châm “thêm bạn bớt thù” của giai đoạn trước sang đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [20, tr.395]. Với phương

châm này, Việt Nam giờ đây muốn được mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước cùng chung mục tiêu phấn đấu chứ không phải chỉ là mở rộng các mối quan hệ với những quốc gia trọng điểm trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Như vậy, về tư duy đối ngoại đã có sự phát triển vượt bậc, hoàn toàn thoát khỏi sự chị phối của ý thức hệ tư tưởng khi chọn lọc đối tác quan hệ. Thay vào đó, lợi ích quốc gia được đặt lên hàng đầu, trong đó, lợi ích phát triển được ưu tiên nhất.

Để thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại trên, Đại hội VII tiếp tục thể hiện quyết tâm giải quyết các vấn đề quốc tế lớn, khai thông hoàn toàn quan hệ quốc tế của Việt Nam. Cụ thể, Đại hội chủ trương: “không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia, sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề Campuchia, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương Liên hợp quốc; mở rộng hợp tác Việt – Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng; phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á; thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ [20, tr.295-296 . Đối với Liên Xô, Đảng tiếp tục khẳng định: “trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô” [20, tr.294 . Trong chính sách đối với Lào và Campuchia nhấn mạnh “đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau” [20, tr.295 . Đại hội cũng chủ trương tăng cường hợp tác bình đẳng với các nước Bắc Âu, Tây Âu, Nhật Bản, châu Á – Thái Bình Dương, với các tổ chức quốc tế, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các lực lượng dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Đường lối đối ngoại với tư duy mới ngay sau đó cũng được đề cập đến trong Hiến pháp mới đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới. So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp mới không còn coi nước nào là kẻ thù cụ thể, để tạo cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng

hóa quan hệ quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [32, tr.17-18 . Như vậy, chính sách đối ngoại mới đã được thể chế hóa bằng văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại.

Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tình hình thế giới chuyển biến rất nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng ở các nước XHCN ngày càng trở nên trầm trọng, Đảng Cộng sản đã mất vai trò lãnh đạo chính quyền ở một số nước. Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã đặt Việt Nam đứng trước nhiều thử thách. Việt Nam mất đi những đồng minh chiến lược, những bạn hàng quan trọng, những thị trường truyền thống và những nguồn viện trợ chủ yếu.

Nhận thức được những thách thức này, các hội nghị trung ương Đảng sau đó đã cụ thể hóa chính sách đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại đã được nêu ra ban đầu ở Đại hội VII.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành trung ương khóa VII (6-1992) đã đánh sự tan rã của Liên Xô cùng với sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu sẽ tác động sâu sắc đến tới toàn bộ tình hình thế giới sắp tới. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam một lần nữa đứng trước nhiều thử thách hiểm nghèo xuất phát từ trong và ngoài nước. Đồng thời, Nghị quyết tiếp tục khẳng định xu thế vận động chủ yếu trong quan hệ quốc tế và nhấn mạnh:

“Các nước vừa đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại vừa cải thiện quan hệ vừa hợp tác, liên kết” [18, tr.5]. Do vậy, trong thời đại ngày

Một phần của tài liệu Qúa trình phá vây trong quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1986 1995 (Trang 25 - 36)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(90 trang)