Vấn đề chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên hợp doanh

Một phần của tài liệu Hợp đồng hợp tác kinh doanh những vấn đề lý luận và thực tiễn (Trang 69 - 72)

CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỂ HỢP ĐỔNG HỢP TÁC

2.3.5. Vấn đề chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên hợp doanh

59

doanh khác theo tỷ lệ góp vốn hay như thế nào? Có phải chờ khi các bên hợp doanh khác không mua hoặc không mua hết phần vốn góp thì mới được bán ra ngoài hay được bán luôn? nếu có thì thời hạn là bao lâu? Nếu vận dụng điều 237 BLDS thì sẽ rất bất lợi cho bên chuyển nhượng. Vì thời hạn được chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ cho người thứ ba là ba tháng đối với bất động sản và một tháng đối với động sản kể từ ngày thông báo chuyển nhượng cho các đồng sở hữu khác mà không có đồng sở hữu nào nhận chuyển nhượng. Vấn đề nữa chưa rõ ràng là “ việc chuyển nhượng vốn phải được các bên hợp doanh thoả thuận.” Các bên hợp doanh thoả thuận cái gì? điều kiện chuyển nhượng, giá trị chuyển nhượng, tiêu chuẩn của người được chuyển nhượng...? Những qui định “mập mờ” này sẽ gây không ít khó khăn cho các bên trong việc chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ.

Pháp luật Hoa Kỳ chỉ cho phép thành viên PA chuyển nhượng phần lợi nhuận và lỗ của mình trong PA và phần tiền hoặc tài sản do PA phân bổ cho thành viên đó. Sau khi chuyển nhượng thành viên này vãn giữ nguyên tư cách thành viên. Việc không cho phép chuyển nhượng phần vốn góp trong tài sản của PA nhằm bảo vệ sự bền vững của PA.

2.3.6. Chấm dứt tư cách bên hợp doanh khi hợp đồng hợp tác kinh doanh chưa hết hiệu lực

Trong thực tiễn, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh là các thể nhân hoặc pháp nhân. Trong quá trình hợp tác kinh doanh, một hoặc một số bên bị chết hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản. Vậy liệu sự kiện này có ảnh hưởng đến sự tồn tại của hợp đồng hợp tác kinh doanh hay không? Liệu có là hợp lý khi buộc các thành viên khác phải chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cũng có trường hợp vì một nguyên nhân nào đó một hoặc một số bên rút khỏi nhóm hợp tác kinh doanh khi hợp đồng hợp tác kinh doanh vãn còn hiệu lực. Hoặc có trường hợp một hoặc một số bên vi phạm hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc có các hành vi trái pháp luật ảnh hưởng đến lơị ich chung của nhóm hợp tác kinh doanh, các bên khác có quyền loại trừ bên hợp doanh này khỏi nhóm hợp tác kinh doanh không ? Liệu rằng tất các tình

60

huống kể trên đã được pháp luật dự liệu chưa? Hay trong thực tế các bên có đề cập đến vấn đề này không?

Pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng chưa đề cập đến vấn đề này.

Qua nghiên cứu UPA và một số giáo trình luật kinh doanh của Mỹ, tác giả luận văn nhận thấy họ qui định vấn đề này như sau:

1. Quyền ra khỏi PA hoặc JV : theo qui định của ƯPA và án lệ Hoa kỳ thì thành viên PA hoặc JV có quyền ra khỏi PA hoặc JV bất cứ lúc nào theo ý chí của họ;

2. Quyền trục xuất một hoặc một số thành viên PA hoặc JV theo nguyên tắc nhất trí của các thành viên còn lại, các trường hợp xuất hiện quyền trục xuất là:

- Việc hợp tác kinh doanh với thành viên này là trái pháp luật;

- Thành viên này đã chuyển nhượng toàn bộ hoặc phần lớn các khoản lợi có thể chuyển nhượng không vì lý do an ninh hoặc bị Toà án thu hồi các khoản lợi kể trên;

- Thành viên này đã bị giải thể; bị đình chỉ điều lệ; bị đình chỉ thẩm quyền kinh doanh và sau thời hạn 90 ngày kể từ ngày có các quyết định kể trên mà không có các quyết định thu hồi các quyết định này.

3. Quyền của Toà án buộc một hoặc một số thành viên PA hoặc thành viên JV ra khỏi PA hoặc JV theo yêu cầu của các thành viên còn lại:

- Thành viên này tham gia vào các hoạt động trái pháp luật và gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất cho hoạt động kinh doanh của PA hoặc JV ;

- Thành viên này cố ý vi phạm hợp đồng PA hoặc JV hoặc các nghĩa vụ khác;

- Thành viên này có hành vi liên quan đến hoạt động kinh doanh của PA hoặc JV và sẽ là bất khả thi nếu tiếp tục để thành viên này hoạt động trong PA hoặc JV.

* Các trường hợp đương nhiên ra khỏi PA hoặc JV:

- Lâm vào tình trạng phá sản;

- Thành viên là cá nhân bị chết hoặc bị mất năng lực hành vi

Việc chấm dứt tư cách thành viên trong các trường hợp này có thể là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc trái pháp luật hoặc không. Theo qui định của pháp luật Hoa Kỳ thì các trường hợp sau được coi là vi phạm hợp đổng hoặc trái pháp luật:

1. Hành vi này của thành viên vi phạm các điều kiện được qui định trong hợp đồng;

2. Khi hợp đổng xác định một thời hạn có hiệu lực cụ thể hoặc một mục tiêu cụ thể mà thời hạn đó chưa hết hoặc mục tiêu đó chưa đạt được mà một bên đơn phương ra khỏi hợp đồng mà một bên hoặc một số bên:

- Tự ý ra khỏi PA hoặc JV trừ trường hợp việc ra khỏi này trong thời hạn 90 ngày kể từ khi thành viên PA hoặc JV khác ra khoỉ vì bị phá sản, chết hoặc mất năng lực hành vi hoặc chấm dứt hoạt động;

- Thành viên bị Toà án buộc ra khỏi PA hoặc JV;

- Thành viên này lâm vào tình trạng phá sản

Hậu quả pháp lý là khi thành viên ra khỏi PA hoặc JV thì thành viên này được thanh toán phần vốn góp vào liên kết kinh doanh và các khoản lợi được hưởng và chia sẻ các khoản lỗ phải chịu. Đối với trường hợp vi phạm hợp đồng hoặc trái pháp luật thì thành viên ra khỏi đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho PA, JV và các thành viên khác.

Qua so sánh trên, có thể thấy rằng các nhà làm luật Việt Nam đã không lường trước được các tình huống kể trên. Do vậy, pháp luật không có điều khoản nào để áp dụng khi xảy ra các tình huống trên.

Một phần của tài liệu Hợp đồng hợp tác kinh doanh những vấn đề lý luận và thực tiễn (Trang 69 - 72)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(112 trang)