CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỂ HỢP ĐỔNG HỢP TÁC
2.3.7. Chấm dứt tư cách thành viên khi hơp đồng chấm dứt hiệu lực
Pháp luật Việt Nam có qui định vấn đề này, theo LĐTNN năm 1996 thì hợp đồng hợp tác kinh doanh chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:
1. Tự nguyện chấm dứt hiệu lực:
-Khi hết thời hạn hoạt động ghi trong giấy phép đầu tư;
-Theo các điều kiện chấm dứt ghi trong hợp đổng;
2. Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc qui định của giấy phép đầu tư.
62
Tuy vậy do tư duy mang nặng tính quản lý nhà nước mà cả trường hợp chấm dứt hiệu lực tự nguyện cũng phải do cơ quan cấp giấy phép đầu tư quyết định. Thủ tục chấm dứt hợp đồng bao gồm: thành lập ban thanh lý; lập báo cao và gửi hồ sơ thanh lý lên cơ quan cấp giấy phép đầu tư xem xét và quyết định; bố cáo về việc chấm dứt hoạt động. Ngoài ra, Điều 41 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP đưa ra nguyên tắc về thứ thự ưu tiên thanh toán như sau:
- Chi phí liên quan đến hoạt động thanh lý;
- Lương, chi phí bảo hiểm xã hội mà nhóm hợp tác kinh doanh còn nợ;
- Các khoản nợ thuế và nghĩa vụ tài chính khác;
- Các khoản nợ;
- Các nghĩa vụ khác.
Các bên thoả thuận về phương thức thanh lý. Giá trị quyền sử dụng đất của thời gian còn lại thuộc tài sản thanh lý.
Tuy nhiên pháp luật hiện hành lại thiếu sót khi đề cập quá chi tiết về thủ tục thanh lý nhưng lại rất mờ nhạt khi qui định về nội dung thanh lý và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh hay noí cách khác là chấm dứt hoạt động của hợp doanh:
- Về nội dung của hoạt động thanh lý, ngoài Điều 41 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP qui định về thứ tự ưu tiên thanh toán, thì không có một điều luật nào qui định về phương thức thanh lý ít nhất là các nguyên tắc mà tại Điều 43 chỉ có vẻn vẹn một câu “...tài sản để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh khi thanh lý được thực hiện theo phương thức do các bên thoả thuận.”
Pháp luật cũng không có một định nghĩa như thế nào là “phương thức thanh lý”. Hơn nữa thử đặt một tình huống nếu các bên không thống nhất được phương thức thanh lý thì giải quyết như thế nào? Cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào đâu để ra phán quyết về phương thức thanh lý? Thực tiễn trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh, phía Việt Nam thường không góp vốn mà chỉ đóng góp công sức. Giả sử trường hợp các bên chỉ thoả thuận chia lãi là 50:50 mà không đề cập đến chia lỗ mà chỉ xác định nguyên tắc lỗ sẽ được xác định cụ thể khi kết thúc hợp đồng. Sau khi kết thúc hợp đổng, khoản nợ của hợp doanh
là 200. 000 đô la bên nước ngoài yêu cầu chia đều 50:50, phía Việt Nam không chịu. Vậy nếu tranh chấp đưa ra Toà án hay trọng tài thì căn cứ vào đâu để giải quyết?
- Pháp luật cũng không có qui định nào về nguyên tắc làm việc của ban thanh lý vì thành viên của ban thanh lý là đại diện của các bên hợp doanh,
xung đột lợi ích rất có thể xảy ra. Trong trường hợp này ban thanh lý không thể làm việc được nếu thiếu nguyên tắc luật định.
Nhìn chung các nhà làm iuật Việt Nam nhìn nhận việc chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới lăng kính “màu hồng” mà chưa tiên liệu được những khoảng tối của việc chấm dứt hợp đồng để có các qui định tương ứng.
Điều 52 LĐTNN năm 1996 chỉ qui định những trường hợp chấm dứt hợp đổng khá “êm đềm”. Còn thực tiễn nhiều khi các bên hợp doanh không muốn làm ăn với nhau nữa vì nhiều lý do “nặng nề” như xung đột lợi ích, một bên có dấu hiệu vi phạm hợp đồng hoặc tình hình tài chính không lành mạnh...Trong trường hợp đó khó mà để các bên tự đề ra các phương thức và nguyên tắc thanh lý. Ví dụ công ty A của Việt Nam và công ty B của nước ngoài ký hợp đổng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông, A không góp vốn mà góp nhân lực, B đầu tư 30 triệu USD và góp công nghệ để xây dựng một mạng di động L. Thời hạn hợp đồng là 15 năm, tỷ lệ phân chia lợi nhuận là 30: 70. Hoạt động được 5 năm, mâu thuẫn về tỷ lệ ăn chia phát sinh do phía Việt Nam đòi tăng 10% lợi nhuận được hưởng. Phía nước ngoài không chịu.
Hai bên thống nhất chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh trước thời hạn.
Trong quá trình thanh lý các bên xác định tài sản còn lại là có giá trị lớn nhất là mạng thông tin di động L và khoảng 32 triệu USD. Phía nước ngoài sẽ chấp nhận nhường cho đối tác Việt Nam 32 triệu USD với điều kiện bên Việt Nam không được sử dụng mạng di động L và trả lại cho B nhãn hiệu hàng hoá và cộng nghệ của mạng L. Bên Việt Nam cũng đòi giữ lại mạng di động L và chấp nhận để B lấy 32 triệu USD. Thiệt hại cho người tiêu dùng sẽ xảy ra nếu B thu hồi lại mạng di động kể trên. Song liệu cơ sở pháp lý nào để chúng ta giải quyết tranh chấp trên.
Do thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp mà nhà làm luât Việt Nam đã không qui định trách nhiệm của các bên sau khi hợp doanh chấm dứt hoạt động.