1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Can thiệp tâm lý cho một trường hợp mắc bệnh lý thận có vấn Đề sức khoẻ tâm thần (tt)

19 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Can thiệp tâm lý cho một trường hợp mắc bệnh lý thận có vấn đề sức khoẻ tâm thần
Tác giả Đỗ Hồng Hoa
Người hướng dẫn TS. Vũ Thy Cầm, TS. Nguyễn Bá Đạt
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Tâm lý học lâm sàng
Thể loại Đề án thạc sĩ
Năm xuất bản 2024
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 19
Dung lượng 510,84 KB

Nội dung

Đề án tập trung vào việc can thiệp tâm lý cho một bệnh nhân mắc bệnh lý thận có vấn đề về sức khỏe tâm thần, sử dụng cách tiếp cận và các kỹ thuật trị liệu nhận thức hành vi CBT và hỗ tr

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-

ĐỖ HỒNG HOA

CAN THIỆP TÂM LÝ CHO MỘT TRƯỜNG HỢP MẮC BỆNH LÝ THẬN CÓ VẤN ĐỀ SỨC KHOẺ TÂM THẦN

Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng

Mã số: 8310402

TÓM TẮT ĐỀ ÁN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG

HÀ NỘI – 2024

Trang 2

2

Công trình được hoàn thành tại:

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS Vũ Thy Cầm

TS Nguyễn Bá Đạt

Phản biện: PGS.TS Nguyễn Sinh Phúc

Đề án được bảo vệ trước Hội đồng chấm đề án thạc sĩ họp tại:

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 30 tháng 12 năm 2024

Có thể tìm hiểu đề án tại:

Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội

Trang 3

3

MỞ ĐẦU

1 Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu

Bệnh lý thận, đặc biệt là suy thận mạn tính và suy thận cấp, không chỉ gây ra những tổn thương về mặt thể chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý người bệnh Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa bệnh lý thận và các rối loạn tâm thần như trầm cảm, lo âu, rối loạn giấc ngủ (De Sousa, 2008) Kimmel và cộng sự (1998) cũng nhấn mạnh rằng các yếu tố tâm lý xã hội đóng vai trò quan trọng trong

việc tuân thủ điều trị và tiên lượng bệnh của bệnh nhân thận

Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc can thiệp tâm lý cho bệnh nhân mắc bệnh lý thận vẫn còn nhiều hạn chế Các nghiên cứu trong lĩnh vực này trên thế giới và tại Việt Nam còn ít và kết quả từ các nghiên cứu này còn có điểm không thống nhất với nhau Điều này có khả năng dẫn đến hiệu quả can thiệp trong thực tế chưa cao và tình trạng tái phát vẫn thường xuyên xảy ra Đây là khoảng trống trong nghiên cứu về can thiệp tâm lý cho bệnh nhân mắc bệnh lý thận, đặc biệt là những nghiên cứu sử dụng

phương pháp tiếp cận toàn diện, kết hợp nhiều kỹ thuật trị liệu khác nhau

Do đó, đề án này được lựa chọn với mục tiêu góp phần bổ sung vào khoảng trống nghiên cứu còn tồn tại, đồng thời cung cấp thêm bằng chứng về hiệu quả của can thiệp tâm lý đối với bệnh nhân mắc bệnh lý thận Đề án tập trung vào việc can thiệp tâm lý cho một bệnh nhân mắc bệnh lý thận có vấn đề về sức khỏe tâm thần, sử dụng cách tiếp cận và các kỹ thuật trị liệu nhận thức hành vi (CBT) và hỗ trợ tâm lý

xã hội CBT đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc điều trị các rối loạn tâm thần như trầm cảm và lo âu (Hofmann và cộng sự, 2012) Hỗ trợ tâm lý xã hội giúp bệnh nhân có thêm sự hỗ trợ từ gia đình và xã hội, từ đó tăng cường khả năng đối phó

với bệnh tật

2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan nghiên cứu về lý luận sức khỏe tâm thần ở bệnh nhân mắc bệnh lý thận

và các liệu pháp tâm lý can thiệp

- Áp dụng liệu pháp CBT để trị liệu một ca lâm sàng mắc bệnh lý thận, được chẩn đoán là có vấn đề về sức khỏe tâm thần và đánh giá hiệu quả liệu pháp trị liệu

- Đưa ra kết luận và khuyến nghị, góp phần làm phong phú dữ kiện về trị liệu tâm lý cho bệnh nhân thận có vấn đề sức khỏe tâm thần

Trang 4

4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TRẠNG SỨC KHOẺ TÂM THẦN Ở NGƯỜI MẮC BỆNH LÝ THẬN VÀ CAN THIỆP BẰNG LIỆU PHÁP TÂM LÝ 1.1 Tổng quan nghiên cứu về vấn đề sức khoẻ tâm thần ở bệnh nhân mắc bệnh

lý thận

1.1.1 Một số nghiên cứu dịch tễ học

Suy thận mạn tính và cấp tính không chỉ gây tổn thương thể chất mà còn ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tâm thần của người bệnh Trầm cảm thường gặp ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo và ghép thận, với tỷ lệ 21% ở bệnh nhân thận mạn tính (Hedayati, 2009) Nghiên cứu (Kimmel, 1998) ghi nhận tỉ lệ trầm cảm cao hơn ở nhóm kinh tế khó khăn, học vấn thấp, ít hỗ trợ xã hội Trầm cảm làm giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị, tăng nguy cơ nhập viện và tử vong Lo âu ở người mắc bệnh lý thận ít được nghiên cứu hơn trầm cảm nhưng vẫn phổ biến Một nghiên cứu theo chiều dọc (Cukor, 2008) cho thấy 45,7% bệnh nhân chạy thận có lo âu Tỉ lệ

lo âu tăng theo giai đoạn bệnh Ngoài ra, 53% bệnh nhân chạy thận trong ít nhất 6 tháng có triệu chứng lo âu, 28% bệnh nhân có mức độ lo âu từ trung bình đến nặng (Feroze, 2012) Nghiên cứu của Hedayati và cộng sự (2009) cho thấy 18,4% bệnh nhân thận mạn tính mắc rối loạn lo âu, bao gồm lo âu lan tỏa, hoảng sợ, lo âu xã hội,

ám ảnh cưỡng chế và căng thẳng sau sang chấn Các triệu chứng lo âu ở nhóm này cao hơn ít nhất hai lần so với dân số chung (Simões e Silva và cộng sự, 2019) và liên quan đến chất lượng cuộc sống suy giảm, tần suất nhập viện cao, và nguy cơ tử vong gia tăng (Cruz và cộng sự, 2011; Marthoenis và cộng sự, 2021) PTSD cũng phổ biến

ở bệnh nhân thận, đặc biệt sau ghép thận Tỷ lệ PTSD dao động từ 0,4% (người nhận

từ người cho sống) đến 21% (người nhận từ người cho chết não) Ở trẻ em, tỷ lệ PTSD

là 16-42%, tuy nhiên, các nghiên cứu trên trẻ em còn hạn chế về quy mô và phương pháp (Nash và cộng sự, 2022)

1.1.2 Các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển sức khoẻ tâm thần ở bệnh nhân mắc bệnh lý thận

Những bệnh nhân điều trị các bệnh về thận, đặc biệt là với bệnh nhân suy thận

và phải chạy thận nhân tạo, phải đối mặt với các tác nhân gây căng thẳng do sự thay đổi sinh hoá trong cơ thể và quá trình điều trị đòi hỏi nhiều công sức và tuân thủ chặt chẽ các hướng dẫn Các tác nhân căng thẳng đó là những khó khăn trong công việc, thay đổi trong các mối quan hệ xã hội và hôn nhân, bị hạn chế thời gian nghỉ ngơi, v.v (Gerogianni & Babatsikou, 2014)

Các bệnh lý về thận ảnh hưởng trực tiếp đến các chức năng tình dục Rối loạn chức năng tình dục là một nhóm rối loạn phức tạp, gây suy giảm hài lòng tình dục và chất lượng cuộc sống Phụ nữ chạy thận nhân tạo mạn tính có tỷ lệ rối loạn chức năng tình dục cao hơn đáng kể so với phụ nữ khỏe mạnh (Coelho-Marques và cộng sự, 2006) Rối loạn chức năng tình dục cũng ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của nam giới, lòng tự trọng và các mối quan hệ (Barroso và cộng sự, 2008) Ở bệnh nhân suy thận mạn tính, rối loạn chức năng tình dục liên quan đến giảm tần suất quan

hệ, bất lực và giảm ham muốn Bệnh nhân cũng lo sợ mất bạn tình (Gerogianni & Babatsikou, 2014)

Trang 5

5

Rối loạn giấc ngủ là một vấn đề rất phổ biến đối với bệnh nhân chạy thận nhân tạo Một nghiên cứu của Yang và cộng sự (2007) cho thấy, 85% bệnh nhân chạy thận nhân tạo không có chất lượng giấc ngủ tốt

Một yếu tố gây căng thẳng quan trọng khác là sự mệt mỏi, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng làm việc và tham gia vào các hoạt động hàng ngày khác nhau của một người Mệt mỏi về thể chất hoặc tinh thần có thể do rối loạn giấc ngủ hoặc mệt mỏi sau khi chạy thận nhân tạo (Gerogianni & Babatsikou, 2014)

1.1.3 Tổng quan một số nghiên cứu liên quan đến trị liệu vấn đề sức khoẻ tâm thần ở bệnh nhân mắc bệnh lý thận

Phần lớn các nghiên cứu về trị liệu tâm lý đối với bệnh nhân mắc bệnh lý thận cho thấy các vấn đề nổi bật ở nhóm đối tượng này là lo âu và trầm cảm, tiếp cận thường được sử dụng trong các nghiên cứu này là CBT Các nghiên cứu như của Chan

và cộng sự (2016), Lerma và cộng sự (2017), Picariello và cộng sự (2018), và Sohn

và cộng sự (2018) đều cho thấy mức độ lo âu giảm đáng kể ở bệnh nhân mắc bệnh lý thận sau khi tham gia trị liệu CBT Tuy nhiên, qua tổng quan này, chúng tôi cũng nhận thấy có nhiều khoảng trống trong nghiên cứu về hiệu quả trị liệu tâm lý trên người mắc bệnh lý thận có vấn đề sức khoẻ tâm thần Các nghiên cứu chủ yếu tập trung sử dụng các kỹ thuật can thiệp của CBT, có rất ít nghiên cứu sử dụng các tiếp cận trị liệu khác, dẫn đến thiếu kết quả so sánh hiệu quả trị liệu tâm lý trên người mắc bệnh lý thận khi sử dụng các tiếp cận trị liệu khác nhau

1.2 Các khái niệm

1.2.1 Khái niệm bệnh lý thận

Theo Viện Quốc gia về Bệnh tiểu đường, Tiêu hoá và Thận của Hoa Kỳ (NIH), thận là cơ quan quan trọng trong việc lọc nước thừa và chất thải ra khỏi máu và tạo thành nước tiểu Bệnh lý thận (kidney disease) là thận bị tổn thương và không thể lọc máu theo cách bình thường

Tạp chí về bệnh lý thận Hoa Kỳ (American Journal of Kidney Disease, 2013) định nghĩa bệnh lý thận được định nghĩa là một nhóm các rối loạn không đồng nhất ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của thận Ngày nay, người ta đã nhận ra rằng ngay cả những bất thường nhẹ trong các chỉ số đo lường cấu trúc và chức năng thận cũng làm tăng nguy cơ phát triển các biến chứng ở các hệ cơ quan khác cũng như tỷ

lệ tử vong, tất cả đều xảy ra thường xuyên hơn nhiều so với suy thận

1.2.2 Khái niệm vấn đề sức khoẻ tâm thần

Sức khỏe tâm thần (mental health) là một khái niệm đa chiều và phức tạp, không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của bệnh tâm thần mà còn bao gồm trạng thái hạnh phúc, khả năng thích nghi với stress, phát triển tiềm năng cá nhân và đóng góp cho cộng đồng

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2022), sức khỏe tâm thần được định nghĩa là: “trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần giúp mọi người có thể đối phó với những căng thẳng trong cuộc sống, nhận thức được khả năng của mình, học tập và làm việc hiệu quả, cũng như đóng góp cho cộng đồng của họ” Định nghĩa này nhấn mạnh sức khỏe tâm thần là một trạng thái tích cực, cho phép cá nhân phát triển và tận hưởng

Trang 6

6

cuộc sống một cách trọn vẹn Sức khỏe tâm thần không chỉ là không có vấn đề rối loạn tâm thần mà còn là sự hiện diện của hạnh phúc, khả năng thích nghi và đóng góp

xã hội

Tổ chức Y tế Thế giới (2022) cũng định nghĩa rối loạn tâm thần được đặc trưng bởi sự rối loạn đáng kể về mặt lâm sàng trong nhận thức, điều hòa cảm xúc hoặc hành vi của một cá nhân Nó thường liên quan đến sự đau khổ hoặc suy giảm trong các lĩnh vực chức năng chức năng Có nhiều loại rối loạn tâm thần khác nhau Rối loạn tâm thần cũng có thể được gọi là tình trạng sức khỏe tâm thần Thuật ngữ “tình trạng sức khoẻ tâm thần” là thuật ngữ rộng hơn bao gồm các rối loạn tâm thần, khuyết tật tâm lý xã hội và (các) trạng thái tinh thần khác liên quan đến sự đau khổ đáng kể, suy giảm chức năng hoặc nguy cơ tự gây hại

1.2.3 Khái niệm cơn hoảng sợ

Theo DSM-5, cơn hoảng sợ (panic attack) là sự gia tăng đột ngột của nỗi sợ hãi mãnh liệt hoặc sự khó chịu dữ dội đạt đến đỉnh điểm trong vòng vài phút và trong thời gian đó, bốn (hoặc nhiều) triệu chứng sau đây xảy ra: (1) đánh trống ngực, tim đập mạnh hoặc nhịp tim tăng nhạn; (2) đổ mồ hôi; (3) run rẩy hoặc rùng mình; (4) cảm giác khó thở hoặc ngạt thở; (5) cảm giác nghẹn ở cổ; (6) đau tức ngực hoặc cảm giác khó chịu ở ngực; (7) buồn nôn hoặc đau bụng; (8) cảm thấy chóng mặt, mất thăng bằng, choáng váng hoặc ngất xỉu; (9) cảm giác ớn lạnh hoặc nóng bừng; (10) cảm giác

tê hoặc ngứa ran; (11) cảm giác không thực tế hoặc tách rời chính mình; (12) sợ mất kiểm soát hoặc “phát điên”; (13) sợ chết

1.2.4 Khái niệm rối loạn lo âu về bệnh

Theo DSM-5, rối loạn lo âu về bệnh (illness anxiety disorder) được đặc trưng bởi sự lo lắng về bệnh tật, quan ngại về cơn đau và sự chú ý quá mức đến cơ thể

1.2.5 Khái niệm về trị liệu nhận thức – hành vi

1.2.5.1 Tổng quan về trị liệu nhận thức – hành vi

Trị liệu nhận thức hành vi là một hình thức trị liệu có cấu trúc, được dẫn dắt bởi mô hình nhận thức Mô hình nhận thức cho rằng các suy nghĩ phi chức năng và những đánh giá nhận thức không thực tế về một số sự kiện nhất định trong cuộc sống

có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực đến những cảm nhận và hành vi Những suy nghĩ phi chức năng này cũng chính là thứ phổ biến với các rối nhiễu tâm lý Do đó, khi nào con người học được cách đánh giá các suy nghĩ của họ theo hướng thực tế hơn và mang tính thích ứng hơn, khi đó họ sẽ trải nghiệm được những thay đổi tích cực trong trạng thái cảm xúc và hành vi của mình Tuy nhiên, để sự thay đổi trong cảm xúc và hành vi của thân chủ thay đổi duy trì được trong thời gian dài hơn, các nhà trị liệu nhận thức – hành vi còn phải làm việc với các tầng nhận thức sâu hơn và điều chỉnh chúng Đó là những niềm tin cơ bản của thân chủ về bản thân, về thế giới và về người khác

Trang 7

7

Trị liệu nhận thức – hành vi được thực hiện dựa trên mô hình nhận thức Mô hình này đưa ra giả thuyết rằng cảm xúc, hành vi và các phản ứng sinh lý của con người bị ảnh hưởng bởi cách nhìn nhận của họ đối với sự kiện Sự kiện bản thân nó không quyết định cách con người cảm thấy như thế nào mà cách con người hiểu sự kiện như thế nào mới là yếu tố quyết định Nói cách khác, cách mà con người nhìn nhận sự kiện là trung gian dẫn đến những phản ứng cảm xúc ở họ

Dobson (2010) cho rằng, có nhiều cách tiếp cận trị liệu được coi là nằm trong phạm vi rộng lớn của trị liệu nhận thức – hành vi Những cách tiếp cận này thường có

ba điểm chung sau:

• Nhận thức có ảnh hưởng đến hành vi

• Nhận thức có thể được theo dõi và thay thế

• Thay đổi về hành vi được thực hiện qua trung gian là thay đổi nhận thức Việc điều hoà nhận thức về hành vi được cho là cốt lõi cơ bản của trị liệu nhận thức – hành vi

Các kỹ thuật trị liệu nhận thức – hành vi có thể được chia ra làm ba nhóm chính:

• Nhóm các kỹ thuật đương đầu

• Nhóm các kỹ thuật giải quyết vấn đề

• Nhóm các kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức

1.2.5.2 Các mô hình phân tích cơn hoảng sợ theo lý thuyết nhận thức – hành vi

Theo Clark và Beck (2010), các cơn hoảng sợ phát sinh từ cách giải thích sai lệch và thảm hoạ hoá các triệu chứng cơ thể Mô hình nhận thức về rối loạn hoảng sợ của Clark và Beck bao gồm hai giai đoạn Giai đoạn I bao gồm các quá trình tâm lý chính chịu trách nhiệm, diễn ra ở mức kích hoạt tự động Giai đoạn II bao gồm những

nỗ lực có chủ ý để đối phó với lo âu và dự đoán hoảng sợ, chỉ đóng vai trò thứ yếu trong việc duy trì rối loạn Giai đoạn I bao gồm chế độ định hướng (orienting mode)

và chế độ nguyên thuỷ (primal mode) Giai đoạn II diễn ra sau khi chế độ nguyên thuỷ được kích hoạt, với quá trình xử lý thông tin có kiểm soát, chậm hơn và phân tích có

hệ thống hơn Lúc này, cá nhân có khả năng phản ánh và đánh giá nguồn lực đối phó tốt hơn

David H Barlow (1988) cho rằng những người mắc chứng hoảng sợ có tính

dễ bị tổn thương về mặt sinh học với các cơn hoảng sợ trong điều kiện căng thẳng Cơn hoảng sợ đầu tiên, được gọi là “báo động giả” (false alarm), xảy ra trong hoặc sau một thời gian căng thẳng Có khoảng một phần ba dân số đã trải qua một cơn hoảng sợ

Theo Barlow, điều phân biệt những người mắc chứng hoảng sợ là sự phát triển của nỗi sợ hãi về các cơn hoảng sợ trong tương lai và sự lo lắng trước mắt (“Điều gì

sẽ xảy ra nếu tôi lại lên cơn hoảng sợ?”) Thông qua điều kiện hóa cổ điển, các triệu chứng thực thể sẽ liên kết với “báo động giả” ban đầu và cơn hoảng sợ đầu tiên, sau

đó dẫn đến cái mà Barlow gọi là “báo động học được” (learned alarm) Báo động học được được kích hoạt bởi sự gia tăng tự nhiên các cảm giác sợ hãi về mặt cơ thể (ví dụ: tập thể dục, caffeine) Những “báo động học được” được lan truyền, kích hoạt chứng

Trang 8

8

rối loạn hoảng sợ toàn diện Do đó, thành phần chính trong trị liệu là phơi nhiễm theo

kế hoạch và giảm bớt những cảm giác sợ hãi của cơ thể thông qua những gì Barlow gọi là các bài tập “phơi nhiễm nội cảm” (Interoceptive Exposure) Ví dụ, Barlow có thể cho bệnh nhân ngồi trên ghế và xoay nhiều vòng để giảm bớt nỗi sợ hãi về cảm giác chóng mặt

Theo mô hình nhận thức - hành vi của Rayburn và Otto (2003), các cơn hoảng

sợ là phản ứng lo âu dữ dội với mối nguy hiểm chủ quan (như nỗi sợ xấu hổ, mất kiểm soát, hoặc chết do hoảng sợ) hơn là nguy hiểm khách quan Sự lo lắng về các cơn hoảng sợ trong tương lai dẫn đến cảnh giác cao, hiểu sai các triệu chứng và hình thành chu kỳ lo âu, hoảng sợ Việc tránh các tình huống gây lo sợ, như thang máy hoặc tập thể dục, khiến người bệnh khó lấy lại cảm giác an toàn Nỗi sợ cảm giác lo lắng đóng vai trò lớn trong việc kích hoạt hoảng sợ, bao gồm cả tỷ lệ bị kích động ở những cá nhân không có tiền sử rối loạn hoảng sợ

1.2.5.3 Các mô hình phân tích lo âu về bệnh theo lý thuyết nhận thức – hành vi

Mô hình nhận thức – hành vi của lo âu về bệnh của Furer và Walker (2004) nhấn mạnh vào các yếu tố hành vi Lo âu về sức khỏe thường phát triển trong bối cảnh một khuynh hướng sinh học đối với lo âu, trải nghiệm liên quan đến bệnh tật hoặc tử vong, và/hoặc các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống

Người bệnh thường tiếp nhận một cách dễ dàng việc lý giải lo âu về sức khỏe, cho rằng có những tác nhân chung gây ra lo lắng về sức khỏe Những tác nhân này có thể bao gồm các cảm giác bên trong như triệu chứng cơ thể hoặc thay đổi chức năng sinh lý được diễn giải là dấu hiệu của bệnh nghiêm trọng Các tác nhân bên ngoài, chẳng hạn như đọc hoặc nghe về bệnh tật, cũng có thể kích thích các giai đoạn lo âu

Sự cảnh giác quá mức dẫn đến nhận thức tăng lên về các triệu chứng cơ thể

Cá nhân có thể sử dụng nhiều hành vi an toàn khác nhau để cố gắng giảm lo âu: kiểm tra cơ thể để tìm dấu hiệu và triệu chứng của bệnh, tìm kiếm sự trấn an về các vấn đề sức khỏe và dựa vào các tín hiệu an toàn Tránh các tình huống liên quan đến bệnh tật và tử vong có thể phát triển như một nỗ lực để đối phó với lo âu Theo thời gian, những chiến lược này làm tăng lo âu về sức khỏe

Các tác nhân gây lo về sức khỏe chủ yếu là bên trong, thường xuất phát từ các triệu chứng thể chất Các triệu chứng mới hoặc mạn tính, như phát ban hay đau đầu,

có thể khiến một số người lo mắc bệnh nghiêm trọng Một số người lo lắng về bất kỳ triệu chứng mới nào, trong khi những người khác chỉ lo về triệu chứng nhất định, đặc biệt nếu có tiền sử gia đình mắc bệnh Nỗi lo tăng khi chẩn đoán không thỏa đáng hoặc khi người đó mắc bệnh nhẹ, như cúm, khiến họ nghi ngờ về tình trạng nghiêm trọng hơn Các tác nhân bên ngoài, như tin tức về bệnh tật, chẩn đoán bệnh hoặc trải nghiệm với cái chết, cũng có thể kích hoạt một chuỗi lo lắng, kiểm tra, tránh né và niềm tin về bệnh Các yếu tố này rất cá nhân hóa và có tác động khác nhau ở mỗi người

Các tác nhân bên trong và bên ngoài có thể dẫn đến những suy nghĩ hoặc hình ảnh liên quan đến sức khỏe, góp phần vào chu kỳ lo lắng Ví dụ, thay vì tự nhủ rằng cơn đau đầu là do làm việc quá sức và cần nghỉ ngơi, một người có thể lo nghĩ rằng

Trang 9

9

đó là dấu hiệu của u não và cần đi khám ngay Đối với nhiều người lo lắng về sức khỏe, sự không khoan dung (intolerance) với sự không chắc chắn dường như là mối quan tâm chính, tức là họ cảm thấy khó chịu và căng thẳng với những điều không rõ ràng và tin rằng sự không chắc chắn là không chấp nhận được Phong cách nhận thức này, thường thấy ở người mắc rối loạn lo âu lan toả, cũng có thể liên quan đến lo lắng

về sức khỏe

Khi cảm thấy bị đe dọa bởi bệnh tật, cơ thể phản ứng bằng những thay đổi sinh lý như nhịp tim nhanh, thở gấp, đổ mồ hôi và căng cơ, giúp chuẩn bị cho nguy hiểm thực tế Tuy nhiên, khi không có nguy hiểm thực sự, các phản ứng này có tác dụng khác Sự gia tăng kích động có thể dẫn đến cảnh giác cao, giúp phát hiện mối đe dọa sớm hơn Những người lo lắng về sức khỏe có thể chuyển sự cảnh giác này vào bên trong, trở nên nhận thức rõ hơn về các triệu chứng cơ thể, dẫn đến suy nghĩ và hình ảnh liên quan đến sức khỏe gia tăng cùng với mức độ lo lắng cao hơn

Sự cảnh giác quá mức có thể dẫn đến việc kiểm tra sức khỏe lặp đi lặp lại Nhiều người lo lắng về sức khỏe thường xuyên kiểm tra cơ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và tìm kiếm sự trấn an từ người khác Họ có thể quan sát cơ thể, theo dõi nhịp tim, huyết áp, kiểm tra cân nặng, và tìm kiếm thông tin về triệu chứng trên Internet Mặc dù việc kiểm tra có thể giảm lo lắng tạm thời, nhưng họ thường lo rằng chưa kiểm tra đủ kỹ hoặc rằng triệu chứng mới đã xuất hiện Những nỗ lực tìm sự trấn

an từ bác sĩ cũng có thể phản tác dụng; ví dụ, nếu bác sĩ yêu cầu xét nghiệm, bệnh nhân có thể lo lắng rằng có điều gì nghiêm trọng Hành vi kiểm tra và tìm kiếm sự trấn an có thể góp phần làm tăng hoặc duy trì lo lắng về sức khỏe

Những người lo lắng về sức khỏe có thể phát triển sự phụ thuộc vào các tín hiệu an toàn, như luôn ở gần bệnh viện, mang theo điện thoại di động cho trường hợp khẩn cấp, và mang theo thức ăn, nước hoặc thuốc Những tín hiệu này có thể tạm thời giảm lo lắng, nhưng sự phụ thuộc vào chúng có thể làm giảm niềm tin vào khả năng đối phó với tình huống khó khăn Họ có thể rất lo lắng nếu quên điện thoại hoặc bình nước, cảm thấy sức khỏe của mình bị đe dọa nếu đi xa bệnh viện

1.2.5.4 Bằng chứng hiệu quả của trị liệu nhận thức – hành vi với cơn hoảng sợ

và lo âu về bệnh

Mặc dù có nhiều cách tiếp cận và liệu pháp khác nhau để điều trị rối loạn hoảng sợ, trị liệu nhận thức – hành vi (CBT) vẫn là phương pháp có hiệu quả cao nhất với tỷ lệ đáp ứng trung bình trên 60% (Mitte, 2005) Nghiên cứu của Roy-Byrne và cộng sự (2005) cho thấy điều trị kết hợp giữa dược lý và CBT cho kết quả cải thiện bền vững hơn so với chỉ điều trị bằng dược lý đơn thuần Có bằng chứng cho thấy điều trị kết hợp giữa liệu pháp CBT và liệu pháp hoá dược cho hiệu quả bền vững, lâu dài Barlow và cộng sự (2000) cho thấy việc kết hợp CBT với thuốc imipramine mang lại cải thiện tốt hơn về triệu chứng trong điều trị duy trì so với chỉ dùng một phương pháp Tuy nhiên, trong 6 tháng theo dõi sau ngừng thuốc, chỉ nhóm dùng CBT và nhóm kết hợp CBT với giả dược tiếp tục lợi thế so với giả dược Nhóm ngừng điều trị

bằng thuốc ghi nhận những thiếu hụt sau khi đạt lợi ích ban đầu từ điều trị kết hợp

Trang 10

10

CBT là liệu pháp có nhiều bằng chứng khoa học ủng hộ nhất trong việc điều trị hiệu quả lo âu về bệnh (Cooper và cộng sự, 2017; Maass và cộng sự, 2020; Petricone-Westwood và cộng sự, 2019) Bên cạnh đó, CBT còn có chứng tỏ được ưu điểm là tối ưu hoá chi phí trong trị liệu tâm lý dành cho người có lo âu về bệnh (Axelsson & Hedman-Lagerlöf, 2019; Weck và cộng sự, 2015)

1.2.5.5 Các phương pháp đánh giá

Giáo dục tâm lý

Giáo dục tâm lý là một phần không thể thiếu trong trị liệu nhận thức – hành vi, đối với bất kỳ rối loạn tâm lý nào Đối với rối loạn hoảng sợ, mục đích của giáo dục tâm

lý là sửa chữa những quan niệm sai lệch, lầm tưởng phổ biến và niềm tin sai lầm về hoảng sợ và các triệu chứng hoảng sợ góp phần gây ra lo lắng

Tự theo dõi (Self-monitoring)

Thân chủ được yêu cầu ghi lại các cơn và tâm trạng hàng ngày trong suốt quá trình trị liệu với mục đích quan sát bản thân một cách chính xác Tự theo dõi được áp dụng trong buổi điều trị đầu tiên và tiếp tục trong suốt quá trình điều trị Nó liên quan đến việc đánh giá liên tục những thay đổi trong trạng thái hoảng sợ, lo lắng và né tránh, thúc đẩy sự tự nhận thức

Các kỹ thuật thở

Trong lúc lo lắng, nhịp thở của mọi người có thể tăng nhanh Điều này có thể dao động từ trạng thái ít dữ dội hơn, kéo dài và có thể gây khó chịu cho cơ thể đến trạng thái nghiêm trọng có thể dẫn đến cơn hoảng sợ Thân chủ được dạy kỹ thuật thở đúng để học cách kiểm soát hơi thở khi có cơn hoảng sợ Họ được huấn luyện để thở chậm lại và cố gắng giữ bình tĩnh và kiểm soát Mặc dù các bài tập thở đôi khi có thể

là một phần của điều trị, nhưng nó không được coi là một phần thiết yếu của liệu pháp CBT trừ khi có xu hướng tăng thông khí (hyperventilation) rõ ràng, vì chúng có thể trở thành một chiến lược né tránh lo âu (David H Barlow, 2002)

Bài tập thư giãn cơ luỹ tiến

Thư giãn cơ luỹ tiến là một loại kỹ năng đối phó cơ thể, yêu cầu thân chủ căng

và thư giãn các cơ ở một số bộ phận của cơ thể Đây là phương pháp cho phép toàn

bộ cơ thể được thư giãn bằng cách thư giãn các nhóm cơ lớn trong cơ thể một cách tự nguyện và thường xuyên Phương pháp này điều trị thuận tiện cho những người có mức độ lo lắng cao và quá lo lắng Thân chủ sẽ học được cách phân biệt giữa sự căng thẳng có hệ thống và sự giải phóng của các nhóm cơ khác nhau bằng cách nhận thức được cảm giác căng thẳng và thư giãn (Essa và cộng sự, 2017)

Phơi nhiễm

Phơi nhiễm là ứng dụng chính của CBT đối với rối loạn hoảng sợ (Yilmaz & Hocaoglu, 2023) Mục đích của nó là thay đổi nỗi sợ hãi của thân chủ đã bị điều kiện hoá trong các tình huống và bối cảnh nhất định bằng cách phơi nhiễm trong cuộc sống thực (in vivo) và thay đổi nỗi sợ hãi về cảm giác cơ thể khi phơi nhiễm với bên trong (phơi nhiễm nội cảm) Phơi nhiễm trong thực tế bao gồm việc tiếp xúc nhiều lần và dần dần với các tình huống sợ hãi trong cuộc sống thực, nhằm loại bỏ sự né tránh, giảm những suy nghĩ thảm hoạ hoá và giảm bớt nỗi sợ hãi, lo lắng Mục đích của phơi

Ngày đăng: 18/02/2025, 15:40

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN