III. 1.1.6.1 Tổn thất áp suất
XIII.9 Bảo vệ dữ liệu
2.2 Phân loại các vùng và thiết bị
Các khu vực được phân loại thành các vùng (0,1,2 đối với các khí bay hơi dạng sương; 20,21,22 đối với bụi) và phải được bảo vệ khỏi tác động của nguồn phát ra lửa.
Thiết bị và hệ thống an toàn dự định sử dụng trong vùng phải đáp ứng được yêu cầu của sắc lệnh. Vùng 0 và 20: thiết bị loại 1, vùng 1 và 21: thiết bị loại 2, vùng 2 và 22: thiết bị loại 3 (loại 1,2,3 thuộc nhóm 2: các thiết bị sử dụng tại khu vực có nguy cơ cháy nổ cao).
Loại 1: thiết bị sử dụng ở các khu vực dễ xảy ra cháy nổ bởi hỗn hợp không khí và gas, dưới dạng hơi hoặc hơi sương hoặc hỗn hợp không khí/bụi xuất hiện liên tục, trong một thời gian dài và thường xuyên.
Loại 2: thiết bị sử dụng ở các khu vực dễ xảy ra cháy nổ bởi các loại khí, hơi, hơi sương hoặc hỗn hợp không khí/bụi thỉnh thoảng có thể gây cháy
Loại 3: thiết bị sử dụng ở các khu vực dễ xảy ra cháy nổ bởi các loại khí, hơi, hơi sương hoặc hỗn hợp không khí bụi khó xảy ra cháy nổ nhưng nếu xảy ra cháy nổ thì chỉ trong thời gian ngắn và không thường xuyên
Vùng 0: là khu vực bao gồm hỗn hợp của không khí với các chất nguy hiểm dưới dạng khí, hơi hoặc hơi sương hiện diện liên tục trong thời gian dài hoặc thường xuyên
Vùng 1: là khu vực bao gồm hỗn hợp của không khí với các chất nguy hiểm dưới dạng khí, hơi hoặc hơi sương thỉnh thoảng có thể xuất hiện.
Vùng 2: là khu vực bao gồm hỗn hợp của không khí với các chất nguy hiểm dưới dạng khí, hơi hoặc hơi sương khó xuất hiện hoặc chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn
Hình 2.1: Quy trình kiểm tra các loại thiết bị
Kiểm tra mẫu: mẫu thử sẽ được kiểm tra thẩm định bởi cơ quan chuyên trách (được EU công nhận), dựa theo tài liệu và mẫu chuẩn.
Bảo đảm chất lượng sản phẩm: nhà sản xuất phải thực hiện hệ thống bảo đảm chất lượng sản phẩm, hệ thống kiểm tra và thử nghiệm. Các hệ thống này được phê duyệt và kiểm tra thường xuyên bởi cơ quan chuyên trách.
Thẩm định sản phẩm: mỗi sản phẩm sẽ được kiểm tra thẩm định riêng lẽ bởi cơ quan chuyên trách.
Sự tương quan giữa các mẫu: các nhà sản xuất phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo đảm các thiết bị được sản xuất đúng theo sắc lệnh và cùng loại với mẫu được thẩm định.
Kiểm tra nội bộ của nhà sản xuất: nhà sản xuất phải chuẩn bị các tài liệu kỹ thuật cho phép đánh giá sự tương quan của sản phẩm được đánh giá. Trong một số trường hợp, bản sao của các tài liệu này sẽ phải gửi đến cơ quan chuyên trách để xem xét.
Theo quy chế các chất nguy hiểm và môi trường cháy nổ 2002, môi trường dễ xảy ra cháy nổ được xác định là hỗn hợp các chất nguy hiểm với không khí, trong điều kiện
không khí bình thường, dưới dạng khí, hơi, hơi sương hoặc bụi, sau khi bắt lửa gây cháy nổ. Nhiệt độ môi trường: từ -20 đến 400C, áp suất từ 0.8 đến 1.1 bar.
Các nguồn đánh lửa:
• Sét
• Ngọn lửa trần: như thuốc lá, hàn,...
• Tia lửa do sự va đập cơ học
• Tia lửa do ma sát
• Tia lửa điện
• Nhiệt độ bề mặt quá cao
• Sự phóng tĩnh điện
• Sự bức xạ
• Sự nén đoạn nhiệt
Phụ lục 3:
KHỞI ĐỘNG ĐỘNG CƠ VÀ LỰA CHỌN KHỚP NỐI 3.1 Khởi động động cơ:
Khởi động động cơ khi đang được kết nối với thiết bị đo có thể tạo ra những vấn đề cho người vận hành phòng thử và là một yếu tố cần được quan tâm khi chọn thiết bị đo.
Nếu động cơ đã có một motor khởi động thì hệ thống trong phòng thử phải cung cấp một dòng DC cao và các mạch tương ứng như mạch bảo vệ để tạo thành một hệ thống khởi động hoàn chỉnh mà không làm tổn hại các đặc tính xoắn và độ chính xác của việc đo momen xoắn.
3.1.1 Khởi động động cơ không có motor khởi động:
Hệ thống tay quay của phòng thử phải có khả năng tăng tốc độ động cơ lên mức bình thường để khởi động và tách ra khi động cơ bắt đầu hoạt động. Thiết bị đo lực ở bốn góc phần tư có khả năng khởi động động cơ trực tiếp nếu được điều khiển hợp lí. Công suất
sẵn có cho thiết bị đo ở bốn góc phần tư luôn lớn hơn so với yêu cầu, vì vậy cần có hệ thống cảnh báo để tránh việc momen khởi động vượt quá yêu cầu, nếu không động cơ sẽ bị kẹt và nhiên liệu thừa trong xy lanh sẽ gây tổn hại đến động cơ và đường truyền lực.
Hình 3.1: Một đường truyền lực đơn giản
Phương pháp ưa thích đối với các loại thiết bị đo khác có hệ thống khởi động là gắn một motor điện ở cuối trục của thiết bị, truyền động thông qua li hợp và dây đai giảm tốc.
Một nửa li hợp ở phía đầu vào nên nó chịu ảnh hưởng của sự rung động xoắn tạo ra do trục của thiết bị đo. Motor có thể được đặt phía trên, dưới hoặc dọc theo thiết bị đo để tiết kiệm chiều dài phòng thử.
Kích thước của motor phải tính đến momen xoắn khi tách trục ra, thường là gấp đôi momen xoắn trung bình, khi tốc độ của motor tương ứng với tốc độ quay mong muốn.
Việc lựa chọn motor và máy khởi động phải tính tới số lần khởi động/giờ khi hoạt động bình thường và khi động cơ bị lỗi. Chế độ hoạt động của motor cũng được yêu cầu xem xét và một quạt làm mát độc lập có thể được trang bị.
Một số động cơ diesel hiện đại yêu cầu quay nhiều hơn tốc độ khởi động, đôi khi lên đến 1200 vòng/phút để mồi hệ thống nhiên liệu. Trong trường hợp này cần một motor khởi động hai tốc độ hoặc biến thiên tốc độ. Lưu ý là động cơ Diesel ở đây đang trong trạng thái “green”: chưa được chạy, các bề mặt ma sát bị khô, hệ thống nhiên liệu cần được mồi và hệ thống điều khiển bị lỗi, không khởi động được.
Hệ thống phải được thiết kế để có thể áp đặt momen xoắn kí sinh tối thiểu khi tháo rời, tức là các tổn thất từ các joint, vòng bi,...; mà thiết bị đo không đo được.
Trong một số trường hợp, motor có thể được gắn trực tiếp lên khung của thiết bị đo và được gắn vĩnh viễn với trục thiết bị đo bằng bộ dây đai để hạn chế sự thiếu chính xác.
Việc này đặt thêm tải lên vòng bi ngõng trục, có thể dẫn tới hiện tượng Brinelling – sự ăn mòn và biến chất vật liệu gây ra do sự rung động và tải nhẹ trong thời gian dài làm mỡ bị văng ra và không bôi trơn được; đồng thời làm tăng ảnh hưởng của momen quán tính lên
thiết bị đo. Tuy nhiên, nó có ưu điểm là momen quay và khởi động có thể đo được bằng các thiết bị đo.
Một giải pháp khác là sử dụng motor khởi động của một động cơ xe tiêu chuẩn kết hợp với hệ thống bánh răng được dẫn động bởi một “bánh đà giả” đặt trên trục có các vòng bi riêng biệt kết hợp trên đường truyền lực. Nhược điểm là nó làm phức tạp hóa tính năng xoắn của hệ thống.
3.1.2 Hệ thống máy khởi động gắn sẵn trên động cơ:
Nếu động cơ đã được trang bị hệ thống khởi động thì ta chỉ cần cung cấp nguồn 12 hoặc 24V là đủ. Phương pháp truyền thống là đặt ắc quy càng gần với máy khởi động càng tốt, với máy phát được đặt ở vị trí thích hợp. Đây không phải là cách bố trí lí tưởng, như là ắc quy phải được đặt trong một hộp có thông gió thích hợp để tránh sự ngắn mạch, và sẽ chiếm một khoảng không gian. Các máy biến thế/chỉnh lưu đặc biệt được thiết kế để thay thế ắc quy hiện đã có trên thị trường. Nó bao gồm một tủ điện để cung cấp điện cho hệ thống đánh lửa và bugi xông ở động cơ diesel. Trong các hệ thống tích hợp lớn hơn, cần có hệ thống cầu nối dây điện cho nguồn DC.
Máy khởi động của động cơ phải sẵn sàng gia tốc thêm cho thiết bị đo trong trường hợp động cơ “green” khi có momen tách trục lớn và yêu cầu kéo dài việc quay tay ở tốc độ cao để mồi hệ thống nhiên liệu trước khi động cơ hoạt động.