1.2.1. Sơ lược quan niệm viêm và đau theo YHCT
Viêm không phải một bệnh cụ thể mà là một quá trình bệnh lý nói chung. Viêm không có trong y văn của YHCT; nhưng viêm có biểu hiện
sưng nóng đỏ nếu thuộc nhiệt, sưng không nóng đỏ nếu thuộc hàn, có thể do nguyên nhân nội nhân hoặc ngoại nhân.
Đau thường đi kèm với viêm. Theo YHCT đau nghĩa là “ thống”, nguyên nhân là do “bất thông” của khí huyết trong kinh mạch. Vì vậy muốn chữa được chứng đau thì phải làm cho khí và huyết lưu thông, thông tức bất thống, thống tức bất thông.
1.2.2. Quan niệm về Zona theo YHCT
Bệnh Zona thần kinh dân gian gọi là giời leo, thuộc phạm trù chứng
“sang dương” của YHCT, bệnh cũng ghi chép với nhiều tên gọi khác nhau, Zona còn gọi là “Đới bào chẩn” tương đương với “chứng viêm quầng eo thắt lưng”, “xà xuyến sang”, “loét nhền nhện”, ví dụ chứng viêm quầng eo thắt lưng trong thiên “Ngoại khoa tâm pháp yếu quyết bạch thoại giải”, sách “ y tông kinh giám” nói: “Bệnh này tên tục gọi là loét chuỗi rắn, khô ướt khác nhau, có sự khác biệt màu đỏ hay màu vàng, đều như hình hạt châu, chỗ khô màu đỏ tươi, dạng như đám mây, gặp gió phát ngứa, phát sốt.
Chỗ ướt màu vàng trắng, mụn nước to nhỏ không đều, làm vỡ sẽ chảy nước ra, tương đối khô sẽ đau nhiều” [23].
Hình 1.2. Hình ảnh Zona
1.2.3. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh Zona theo YHCT
- Do cảm phong hỏa hoặc nhiễm thấp độc tà và có quan hệ với các nhân tố như là tình chí, ăn uống, ngủ nghỉ không điều độ.
- Tình chí không thư thái làm Can khí uất kết, uất kết lâu ngày hóa thành nhiệt.
- Ăn uống không điều độ làm Tỳ vận hóa khó khăn, thấp ứ đọng lại trong cơ thể.
- Ngủ nghỉ không điều độ, sự bảo vệ bên ngoài mất điều hoà, khiến cho phong hoả, thấp độc uất kết lại ở Can và Đởm.
- Can bị hỏa, Tỳ bị thấp uất kết lại bên trong, do cơ thể hư yếu nên tà độc lại xâm nhập ra bên ngoài, kinh lạc bị ứ tụ lại ở vùng giữa của lưng và bụng, khí huyết ninh kết ra ngoài cơ và da, mà phát ra bệnh.
Hình 1.3. Cơ chế bệnh sinh Zona theo YHCT
1.2.4. Các thể Zona theo YHCT 1.2.4.1. Thể thấp nhiệt
- Biểu hiện: Mụn nước ở thời kỳ khởi phát, vùng tổn thương mầu đỏ, nóng rát, đau nhức, tứ chi mỏi, tiếng nói nhỏ, rõ, hơi thở hôi, ăn vào thì đầy trướng, tiểu tiện vàng, đại tiện khô kết, chất lưỡi hồng, rêu vàng nhớt, mạch sác hoặc hoạt sác.
- Pháp điều trị: Thanh hóa thấp nhiệt, lương huyết, giải độc.
1.2.4.2. Thể thấp độc hỏa thịnh
- Biểu hiện: Mụn nước ở thời kỳ toàn phát, đáy mụn nước có màu hồng tươi, rất đau và nóng rát, có thể thấy mụn nước lẫn mụn mủ, mọc gom một chỗ hoặc giống như dải khăn, kèm theo đau đầu, phát sốt, về đêm không ngủ được, họng khô, miệng đắng, tiếng nói nhỏ, yếu, hơi thở hôi, nước tiểu vàng, táo bón, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc vàng khô, mạch huyền sác.
- Pháp điều trị: Tiết hỏa lợi thấp, giải độc, chỉ thống.
1.2.4.3. Thể khí trệ huyết ứ
- Biểu hiện: Giai đoạn đau sau Zona của bệnh, mụn nước khô lại và kết thành đám vảy, đau liên tục, thỉnh thoảng đau nhói như kim châm, miệng khô, tâm phiền, chất lưỡi đỏ thẫm, có điểm ứ huyết, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền.
- Pháp điều trị: Hành khí, hoạt huyết, thông lạc chỉ thống.
1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ BỆNH ZONA TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1.3.1. Nghiên cứu điều trị bệnh Zona trên thế giới
Tôn Vũ (2000) dùng Thỏ ty tử điều trị cho 49 bệnh nhân Zona thần kinh, lấy cao Thỏ ty tử 100g sao khô, tán bột, trộn dầu vừng, thành dạng cao lỏng.
Trước khi đắp lên, dùng nước muối sinh lý rửa vùng da bị bệnh, sau đó đắp lên.
Kết quả 40 bệnh nhân khỏi hoàn toàn, 9 bệnh nhân có hiệu quả rõ rệt [24].
Dương Ái Bình (2002) dùng bột Thanh đại trộn với dầu hạt cải đắp
ngoài cho bệnh nhân mắc Zona thần kinh. So sánh giữa 2 nhóm đối chứng và nghiên cứu, kết quả cho thấy hiệu quả trị liệu tăng hơn so với nhóm đối chứng p < 0,01 [27]. Tiêu Quế Cần dùng bột Thanh đại trộn với lòng trắng trứng, đắp ngoài cho 23 bệnh nhân, ngày 4 – 5 lần. Kết quả 23 trường hợp khỏi hoàn toàn, liệu trình từ 2 – 5 ngày, không có phản ứng phụ [25].
An Vũ Căn (2002) dùng bột Đại hoàng từ 50 – 200g, trộn với nước trà đặc hoặc rượu, điều trị đắp ngoài cho 28 bệnh nhân mắc Zona thần kinh, ngày 1 – 2 lần, 7 ngày 1 liệu trình. Kết quả 28 bệnh nhân khỏi hoàn toàn, đạt hiểu quả 100% [26]. Cao Văn Chính dùng bột Đại hoàng trộn với băng phiến tỷ lệ 10/1, hòa với nước nguội, đắp ngoài điều trị cho 20 bệnh nhân, liệu trình từ 8 đến 20 ngày, kết quả 20 bệnh nhân khỏi hoàn toàn, không để lại di chứng, không tác dụng phụ [27].
Lưu Thành Quyên (2002) dùng Vương bất lưu hành sao vàng tán bột, trộn với dấm ăn, đắp trực tiếp lên vùng da ở bệnh nhân mắc Zona thần kinh, ngày từ 4 – 6 lần. Kết quả bệnh nhân chữa khỏi sau 1 – 3 ngày điều trị, hiệu quả rõ rệt đối với bệnh nhân điều trị sớm. Vương bất lưu hành vị khổ hàn, quy vào kinh can vị, có tác dụng hành khí, họat huyết khứ ứ, tán kết chỉ thống, làm vùng da bệnh nhanh lành, giảm đau rõ rệt [28].
Gnann và cộng sự (2002) cho thấy, khi điều trị bằng Acyclovir nhận thấy những bệnh nhân mắc Zona thần kinh mà tuổi đời trên 50 thì thời gian trung bình để khỏi cơn đau là 45 ngày và tỷ lệ đau tồn tại đến 6 tháng là 15% [29].
Chu Vĩnh Huy (2004) dùng nước chiết xuất Bản lam căn bôi ngoài cho 51 bênh nhân mắc Zona thần kinh, ngày bôi 4 – 6 lần. So sánh hiệu quả điều trị 2 nhóm, nhóm đối chứng dùng giảm đau, kháng virus, vitamin B12, B1.
Kết quả liệu trình trị liệu, di chứng của nhóm nghiên cứu đều giảm so với nhóm đối chứng (p < 0,05), hiệu quả trị liệu nhóm nghiên cứu cao hơn nhóm đối chứng (p < 0,05), không có tác dụng phụ [30].
Hồ Học Cầu (2005) dùng lá Hải kim sa giã nát lấy nước, lấy nước bôi ngoài cho 63 bệnh nhân Zona thần kinh, ngày từ 4 – 6 lần, liệu trình 5 – 7 ngày, kết quả thấy thời gian lành bệnh giảm một nửa so với dùng thuốc thông
thường, không có tác dụng phụ [31].
Rowbotham và cộng sự (2005) nghiên cứu mù đôi có đối chứng với giả dược về tác dụng giảm đau của Neurontin trên bệnh nhân mắc Zona thần kinh thấy rằng Neurontin có tác dụng giảm đau ngay tuần đầu điều trị và có tác dụng cải thiện về rối loạn giấc ngủ, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đau sau Zona [32].
Vương Lệ Tân (2007) dùng dầu Tử thảo đắp ngoài cho 30 bệnh nhân mắc Zona thần kinh, mùa hè đắp 3 ngày, mùa đông đắp 7 ngày, ngày 2 lần, kết quả 30 bệnh nhân thấy hiệu quả rõ rệt, không có tác dụng phụ [33].
Lưu Quốc Ứng (2007) dùng lá Sung tươi giã nát, trộn với dấm ăn đắp ngoài điều trị cho 45 bệnh nhân Zona thần kinh, mỗi lần đắp 30 phút, ngày 2 lần, không dùng cho bệnh nhân nhiễm trùng da, theo dõi quan sát sau 10 ngày điều trị. Kết quả 42 bệnh nhân khỏi hoàn toàn, 3 bệnh nhân có hiệu quả, không có tác dụng phụ [34].
Qua các nghiên cứu trên cho thấy, phần lớn các vị thuốc trên có tác dụng thanh nhiệt giải độc, trừ thấp, hoạt huyết, cho hiệu quả điều trị rõ rệt, không có tác dụng phụ, nhưng số lượng bệnh nhân nghiên cứu còn hạn chế, một số ít bệnh nhân tồn tại di chứng đau thần kinh, có thể do tác dụng một vị thuốc còn yếu, vì thế đối với bệnh nhân nặng, bệnh lâu ngày nên kết hợp điều trị bằng y học hiện đại và các bài thuốc y học cổ truyền, tăng hiệu quả điều trị, đồng thời rút ngắn quá trình trị liệu, tăng chất lượng sống cho bệnh nhân.
1.3.2. Nghiên cứu điều trị bệnh Zona trong nước
Đặng Văn Em và cộng sự (2005), khi nghiên cứu trên 60 bệnh nhân Zona được điều trị theo hai phác đồ: phác đồ Acyclovir + Paracetamol kết hợp với Amitriptylin 25mg, 1 viên/ngày và phác đồ Acyclovir + Paracetamol thấy rằng kết quả chung là như nhau, nhưng phác đồ có Amitriptylin có tác dụng giảm đau tốt hơn [35].
Nguyễn Thị Lai (2005) nghiên cứu 34 bệnh nhân bị Zona ở tuổi từ 46 - 87 được điều trị Neurontin cho thấy sau 2 tuần điều trị mức độ đau theo thang điểm Likert giảm có ý nghĩa với p < 0,001 và làm cải thiện giấc ngủ và nâng cao chất lượng cuộc sống ở 79,41% bệnh nhân (p < 0,001). Neurontin không làm thay đổi chức năng gan, thận của bệnh nhân [36].
Vũ Ngọc Vương (2006), điều trị 75 bệnh nhân Zona có thời gian mắc bệnh dưới 7 ngày tính từ khi có thương tổn da, tất cả 75 bệnh nhân đều ở độ tuổi từ 50 - 80 và không có bệnh nhân Zona mắt.Kết quả ở nhóm điều trị bằng điện châm cho thấy thời gian lành tổn thương trung bình là 8,57 ± 3,58 ngày, mức độ giảm đau trung bình là 5,4 điểm (từ 6,67 điểm giảm xuống 1,27 điểm) theo thang điểm đau VAS (Visual analogue scale), thời gian ngủ kéo dài hơn là 2,13 giờ (từ 3,68 giờ lên 5,81 giờ).[37]
Trần Thế Công (2007), nghiên cứu trên 35 bệnh nhân Zona được điều trị bằng Acyclovir phối hợp với Neurontin cho thấy sau 20 ngày điều trị có 91,4% bệnh nhân đạt kết quả tốt, 2,9% đạt kết quả khá, 5,7% đạt kết quả vừa, không có kết quả kém. Về tác dụng giảm đau theo chỉ số Likert, sau 5 ngày điều trị giảm được 53,2%, sau 10 ngày điều trị giảm được 79,6%, sau 15 ngày điều trị giảm được 90,1% và sau 20 ngày điều trị giảm được 95,2%. Về tác dụng cải thiện giấc ngủ, thời lượng giấc ngủ tăng nhanh trong 5 ngày điều trị đầu tiên (từ 2,68 giờ/ngày lên 4,55 giờ/ngày) [38].
Nguyễn Lan Anh (2011), nghiên cứu trên 31 bệnh nhân Zona điều tri bằng kem Lô hội AL - 04 phối hợp với Acyclovir cho kết quả sau 20 ngày điều trị: tốt là 6,45%, khá là 77,42%, vừa là 12,9%, kém là 3,23%. Tác dụng giảm đau theo thang điểm Likert: sau 5 ngày giảm 20,07%; sau 10 ngày giảm 34,74%; sau 15 ngày giảm 41,82%, sau 20 ngày điều trị giảm 47,22% [39].
Nguyễn Thị Thu Hoài (2011) Nghiên cứu tình hình, đặc điểm lâm sàng, tác dụng giảm đau của phác đồ Acyclovir và Neurontin phối hợp với
Amitriptyline trong bệnh Zona trên 71 bệnh nhân thấy điều trị bệnh Zona bằng phác đồ Acyclovir và Neurontin phối hợp với Amitriptyline cho kết quả tốt 90,3%; khá: 6,5% và kém: 3,2%. Mức độ giảm đau trong quá trình điều trị bệnh: giảm 6,97 điểm (từ 7,13 điểm xuống còn 0,16 điểm). Bệnh nhân ngủ tốt dần trong 5 ngày đầu điều trị (từ 2,71 giờ/ngày lên 5,1 giờ/ngày) và trở về bình thường sau 20 ngày điều trị [40].