THỰC TRẠNG DÒNG VỐN TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN

Một phần của tài liệu Nghiên cứu vấn đề kiểm soát vốn tại việt nam (Trang 34 - 45)

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÓAT VỐN TẠI VIỆT NAM

2.1 THỰC TRẠNG DÒNG VỐN TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN

2.1.1.1 Vốn FDI

Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn ủăng kyự cấp mới năm 2000 ủạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn ủăng kyự giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001; năm 2003 (ủạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Sau đó bắt đầu có xu hướng điều chỉnh và phục hồi với ngưỡng vượt trên 4 tỷ USD vào năm 2004.

Hỡnh 2.1 – Vốn FDI giai ủoạn 2000 - 2005

- 1.000,0 2.000,0 3.000,0 4.000,0 5.000,0 6.000,0 7.000,0 8.000,0

2000 2001 2002 2003 2004 2005

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Vốn đăng ký Vốn thực hiện Vốn thực hiện/Vốn đăng ký

(Nguồn: Bộ Kế hoạch – Đầu tư) Đến năm 2005, vốn ủăng kyự ủạt treõn 6,8 tỷ USD vốn ủăng kyự, vượt mục tieõu ban đầu đã đề ra là 4,5 tỷ USD. Trong đó, đã có 3,3 tỷ USD vốn thực hiện với khoảng 120 dự án đi vào hoạt động. Điểm đáng chú ý trong thu hút đầu tư năm 2005 là chất lượng dự án mới và dự án tăng vốn đã có những chuyển biến tích cực, các tập đòan đa quốc gia quay trở lại Việt Nam đầu tư dự án và mở rộng sản xuất cũng tăng đáng kể. Cụ thể là các dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên

Triu USD

Năm

tiến như dự án xây dựng hệ thống di động CDMA của các mạng di động Sfone, HT mobile,...; dự án nghiên cứu, phát triển và sản xuất thiết bị âm thanh siêu nhỏ của tập đoàn SONION; dự án mở rộng sản xuất của tập đoàn CANON; ...

FDI đã có góp đáng kể vào tổng thu ngân sách với tỷ trọng tăng dần qua các năm, từ 10,24% năm 2000 leõn 16,56% năm 2005. Tốc ủộ tăng trưởng của số thuế đã nộp của khu vực này qua các năm đều khá cao (trên 20%). Nếu như chúng ta hạn chế được tình trạng gian lận thuế của khu vực này thì tỷ lệ nộp vào ngân sách nhà nước còn cao hơn nhiều.

Bảng 2.1 - Đĩng gĩp của FDI vào ngân sách nhà nước giai đoạn 2000 - 2005

Chỉ tieâu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng thu ngân sách (tỷ đồng) 46.223 52.647 63.530 78.687 104.577 115.205 Thu từ khu vực FDI (tỷ ủồng) 4.735 5.702 7.276 9.942 15.109 19.081 Tỷ trọng khu vực FDI/cả nước

(%)

10,24 10,83 11,45 12,63 14,45 16,56

Tăng trưởng hàng năm (%) - 20,42 27,60 36,64 51,97 26,29

(Nguồn: Tổng cục Thống keâ) 2.1.1.2 Vốn FPI

Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á đã làm giảm sút và thu hẹp đáng kể quy mô FPI vào Việt Nam. Từ 7 Quỹ đầu tư trong giai đoạn 1987 – 1997, đã có 4 Quỹ rút khỏi Việt Nam, 2 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô, chỉ còn Quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) được thành lập tháng 7- 1995, do công ty Dragon Capital quản lý, với quy mô vốn nhỏ nhất là 35 triệu USD là vẫn còn hoạt động.

Cùng với bối cảnh hội nhập và cải cách nền kinh tế, làn sóng các quỹ đầu tư nước ngồi được khởi động lại từ năm 2002, khi các nhà đầu tư nhận thấy tiềm năng từ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Sự đổ bộ, tháo chạy và quay trở lại của làn sóng đầu tư gián tiếp trên cho thấy sự năng động của một dòng vốn lưu thông không chỉ trong một quốc gia, một khu vực mà trên toàn cầu.

Đồng thời, sự ra đời và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) TP.HCM từ ngày 28/07/2000 đã khơi nguồn cho một thị trường vốn FPI với nhiều bước chuyển ngoạn mục. Từ ngày khai trương đến 30/03/2001, thị trường có 5 loại cổ phiếu với số lượng niêm yết 41.117.840 cổ phiếu và giá trị vốn hóa thị trường 2.001.428.784 đồng. Nhưng với 101 phiên trong giai đoạn này, đã không có giao dịch của NĐTNN nào. Có lẽ do TTCK Việt Nam còn non trẻ, quy mô thị trường quá nhỏ, tính thanh khoản chưa cao nên các NĐTNN còn khá e dè.

Đến ngày 02/04/2001, NĐTNN đầu tiên là ông David Huw Appleton chính thức tham gia tại phieõn 102, với giao dịch mua 100 cổ phiếu của TMS. Từ ủaõy, đánh dấu một thời kỳ đầu tiên thu hút giao dịch của các NĐTNN tại TTGDCK TP.HCM. Do quy mô TTCK Việt Nam còn nhỏ bé, chính sách đối với NĐTNN chưa thực sự cởi mở, đồng thời cơ chế lưu ký, giao dịch còn khá phức tạp do đđó tham gia chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, tính chuyên nghiệp chưa cao và vốn vào thị trường vẫn chưa ổn định. Do vậy, phần lớn các NĐTNN tham gia TTCK Việt Nam mang tính dài hạn nên đã góp phần kích cầu thị trường. Đối tượng này được xem là một trong những nhân tố tích cực trong việc hâm nóng vào thời điểm thị trường đang suy giảm, nhưng lại đặt ra một vấn đề tồn tại cần phải xem xét đó là tâm lý chạy theo NĐTNN của các nhà đầu tư trong nước.

VN – Index giai đoạn này lên tới đỉnh 571,04 điểm tại phiên giao dịch thứ 137 ngày 26/06/2001 và rớt xuống đáy 130,09 điểm ngày 24/10/2003, sau đó rơi vào giai đoạn trầm lắng gần đến cuối năm 2005. Đến lúc này, nguồn vốn FPI chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn ĐTNN tại Việt Nam, ước khoảng 1% vốn FDI, còn ở các quốc gia trong khu vực thì tỷ lệ này là 30% - 40%.

Hình 2.2 - Chỉ số VN-Index các năm 2001 - 2011.

(Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước) 2.1.1.3 Vốn ODA

Mức ODA cam kết đã tăng dần qua các năm 2000 - 2005, trong đó chỉ có năm 2000 và 2001 là đạt mức 2.400 triệu USD, các năm sau mức cam kết tài trợ ODA đều tăng trung bình trên 10% mỗi năm. Điều này chứng tỏ các nhà tài trợ ngày càng chú ý và ủng hộ chặng đường cải cách và phát triển của Việt Nam.

Tuy nhieân, mức giải ngaân trong từng thời kỳ vẫn chậm, chỉ xấp xỉ 53% so với cam kết, cho thấy sự dậm chaân tại chỗ, thậm chí thụt lui về khả năng hấp thụ ODA của Việt Nam. Trong đó, càng về sau của giai đoạn 2000 - 2005, tỷ lệ vốn viện trợ không hoàn lại giảm so với tổng khối lượng viện trợ nhưng Việt Nam vẫn được xếp vào diện nhận ODA ưu đãi nhất (viện trợ không hoàn lại trung bình từ 25% - 30%

tổng viện trợ và khoản vay ưu đãi có lãi suất thấp từ 1% – 1,5%/năm).

Hỡnh 2.3 – Vốn ODA giai ủoạn 2000 – 2005

- 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 3.500 4.000

Vốn cam kết 2.400 2.400 2.462 2.839 3.441 3.748 Vốn ký kết 1.768 1.778 1.805 1.757 2.568 2.515 Vốn giải ngân 1.500 1.530 1.528 1.421 1.650 1.787

2000 2001 2002 2003 2004 2005

(Nguồn: Bộ Kế hoạch – Đầu tư) Triệu USD

Năm

Tính từ năm 2000 đến hết năm 2005, tổng giá trị ODA đã được ký kết đạt 12.831 triệu USD, chiếm khoảng 74% tổng nguồn vốn ODA đã được cam kết, trong đó viện trợ không hoàn lại khoản 15% - 20%, phần còn lại là vốn vay ưu đãi. Số vốn ODA ký kết này được sử dụng trong nhiều năm, tuỳ thuộc vào thời hạn của các chương trình và dự án cụ thể.

2.1.2 Giai ủoạn 2006 - 2011.

2.1.2.1 Vốn FDI

Việc Quốc hội ban hành Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01/07/2006, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước càng tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam.

Năm 2006 lượng vốn FDI có sự tăng vọt, cả nước thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng ký, vốn thực hiện trên 4,1 tỷ USD, hơn 800 dự án mới, 440 dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Giai đoạn này, xuất hiện nhiều dự án của các tập đoàn xuyên quốc gia như dự án sản xuất thép tại Bà Rịa – Vũng Tàu của tập đoàn Posco Hàn Quốc có tổng vốn đăng ký là 1,126 tỷ USD; dự án đầu tư của tập đoàn Intel tại TP.HCM với số vốn lên tới 1 tỷ USD;… Cơ cấu đầu tư có sự chuyển dịch tích cực theo hướng gia tăng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ cao.

Hỡnh 2.4 – Vốn FDI giai ủoạn 2006 – 2011*

- 10.000,0 20.000,0 30.000,0 40.000,0 50.000,0 60.000,0 70.000,0

2006 2007 2008 2009 2010 2011*

0,00%

10,00%

20,00%

30,00%

40,00%

50,00%

60,00%

70,00%

80,00%

Vốn đăng ký Vốn thực hiện Vốn thực hiện/Vốn đăng ký

(Nguồn: Bộ Kế hoạch – Đầu tư, (*)Dự báo) Triệu USD

Năm

Vốn FDI đăng ký tăng qua các năm, năm 2007, là 21,3 tỷ USD thì năm 2008, lên đến 64,018 tỷ USD, tăng gần 300% so với năm 2007, số dự án cấp mới là 1.171 và vốn giải ngân cũng đạt 11,6 tỷ USD. Đã có 50 quốc gia và vũng lãnh thổ đăng ký đầu tư vào Việt Nam, trong đĩ 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, Malaysia đứng đầu với 55 dự án. Vốn đăng ký mới chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, có 572 dự án với vốn đăng ký 32,62 tỷ USD, chiếm 48,85% số dự án và 54,42% về vốn đăng ký.

Tình hình thu hút vốn FDI suy giảm vào năm 2009, với 22,62 tỷ USD vốn đăng ký và thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD. Mức vốn đăng ký này chưa đến 1/3 so với năm 2008 nhưng vẫn vượt mức kế hoạch đề ra, đây là một kết quả khả quan trong bối cảnh nguồn vốn FDI trên toàn thế giới năm qua suy giảm gần 40% do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu.

Năm 2010, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đãđđạt 18,6 tỷ USD, bằng 82,2%

cùng kỳ năm 2009, trong đó lượng vốn được cấp phép mới đạt 17,2 tỷ USD. Trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu chưa được phục hồi thì kết quả nêu trên là một thành công lớn đối với Việt Nam. Có 55 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Singapore vươn lên dẫn đầu các nhà đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 4,43 tỉ USD chiếm 23,8 % tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hà Lan đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm trên 2,37 tỉ USD, chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư tại Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 2,36 tỉ USD, chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

So với năm 2010 thì 10 tháng đầu năm 2011, tính chung cả cấp mới và tăng vốn các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 11,27 tỷ USD, bằng 78%. Số dự án được cấp mới là 861 với tổng vốn đăng ký 8,88 tỷ USD, bằng 70% so với cuứng kỳ năm 2010.

Như vậy, tớnh ủến năm 2011, tổng số vốn ủăng kyự ủạt hơn 200 tỷ USD với 13.545 dự án. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 101 tỷ USD, chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn là 46 tỷ USD, chiếm 22,81% tổng vốn ủầu tư (Phụ lục 4).

Có thể nói, động lực chính thôi thúc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là khai thác thị trường và nguồn nhân công rẻ. Trên thực tế, những năm gần đây, bắt đầu xuất hiện nguy cơ dòng vốn FDI có thể dịch chuyển khỏi lãnh thổ Việt Nam khi các nhà đầu tư dần nhận ra những hạn chế về trình độ nhân lực trong lúc nhu cầu tiêu dùng nội địa phần nào bị ảnh hưởng bởi những khó khăn kinh tế. Chỉ có 8% trong số các công ty có vốn đầu tư nước ngoài cho biết có ýđđịnh mở rộng đầu tư trong vòng 3 năm tới.

Rieõng hoạt ủộng M&A trong khu vực doanh nghiệp FDI ở Việt Nam, theo ghi nhận của Cục Quản lý cạnh tranh, năm 2008 đã có 46 thương vụ sáp nhập được thực hiện với tổng vốn đầu tư trên 900 triệu USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp thực phẩm chiếm tỷ trọng gần 50%.

Năm 2009, trong tổng số 230 vụ mua bán và sáp nhập thì có 40% là của dòng vốn nước ngoài. Trong chín tháng đầu năm 2011, quy mô thị trường mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) đã đạt 2,67 tỉ USD, vượt xa con số 1,75 tỉ USD của cả năm 2010. Trong đó, hoạt động M&A chủ yếu từ sự tham gia của các tập đoàn nước ngoài, chiếm tỷ trọng hơn 81%. Nhật vẫn là đối tác đầu tư mạnh nhất vào Việt Nam qua M&A với trên 236 triệu đôla Mỹ trong chín tháng qua.

2.1.2.2 Vốn FPI

Trong năm 2006, có thêm nhiều quỹ đầu tư mới và nhiều quỹ hiện hữu cũng xin tăng vốn. Đến cuối năm 2006, đã có 27 Quỹ ĐTNN được thành lập với tổng số vốn FPI vào Việt Nam trên 2 tỷ USD (Phụ lục 5).

Với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (07/11/2006) và sự tăng trưởng cao của nền kinh tế, các dòng vốn gián tiếp nước ngoài liên tục đổ vào trong nước nhằm tranh thủ những lợi thế của thị trường mới nổi. Treân TTCK gần 50 tổ chức nước ngoài mở tài khoản hoặc ủy thác đầu tư, làm cho giá cổ phiếu mới vừa IPO xong tăng lên rất cao so với giá trị thực. Tại sàn TP.HCM, chỉ số VN – Index lập kỷ lục cao nhất trong lịch sử hoạt động khi đạt 1170,67 điểm vào ngày 12/03/2007. Tại TTGDCK Hà Nội, chỉ số HASTC – Index cuối tháng 12/2006 ở mức 242,89 điểm thì đến ngày 09/03/2007 đã tăng gần gấp đôi, đạt đỉnh với 450 điểm (Phụ lục 6).

Tuy nhiên, từ cuối năm 2007, thị trường bắt đầu tụt dốc không phanh và đến 26/03/2008 VN – Index chốt ở mức thấp kỷ lục so với trước đó là 495,02 điểm.

Năm 2008, thị trường đầy biến động với xu hướng trái ngược nhau của hai giai đoạn nửa đầu và nửa cuối năm. 6 tháng đầu năm, mặc dù thị trường đi xuống, các nhà đầu tư trong nước tháo chạy khỏi thị trường thì NĐTNN vẫn duy trì mua ròng.

Từ đây cho thấy rõ sự thiếu kỹ năng phân tích thị trường, tâm lý chạy theo đám đông xảy ra ở rất nhiều nhà đầu tư trong nước. Từ 02/01/2008 đến 21/05/2008, khối NĐTNN đã mua vào hơn 134,8 triệu đơn vị CP và CCQ, trong khi lượng bán ra chỉ khoảng 58,8 triệu ủơn vị. Như vậy qua 69 phieõn giao dịch, khối lượng mua ròng đạt xấp xỉ 76 triệu đơn vị, trị giá gần 4.950 tỷ đồng.

Đầu quý III năm 2008, chỉ số chứng khoán sau nhiều phiên trượt dốc đã quay đầu chút ít, nhưng ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính cuối năm 2008 đã làm sụp đổ hi vọng của các nhà đầu tư. Các quỹ đầu tư cơ cấu lại danh mục và giảm tỷ lệ sở hữu đáng kể ở nhiều công ty niêm yết. Hiện tượng bán ròng của khối ngoại xảy ra, mạnh mẽ nhất là giữa tháng 10/2008. Tổng cộng trong 3 tháng cuối năm, lượng bán ròng của khối này là hơn 1.730 tỷ đồng cổ phiếu và 27.000 tỷ đồng trái phiếu. Theo UBCKNN, tính đến tháng 12/2008, giá trị danh mục của NĐTNN trên TTCK còn khoảng 4,6 tỷ USD, giảm gần 50% so với 2007.

Bước vào năm 2009, suy thoái kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu chấm dứt, những hoài nghi về khả năng vực dậy nền kinh tế thế giới của chính phủ các nước chưa ủược giải tỏa, TTCK thế giới chao ủảo khiến TTCK Việt Nam lieõn tục ủổ dốc suốt hai tháng đầu năm. Mọi diễn biến của chỉ số chứng khoán Việt Nam luôn đi cùng với biến động chỉ số chứng khoán thế giới, khi các chỉ số chứng khoán trên thế giới chạm mốc đáy (DowJones – 6.547,05 điểm, Nikkey 225 – 7.054,98 điểm, …) thì VN – Index cũng rơi dần và thiết lập đáy mới ở mức 235,5 điểm vào ngày 24/02/2009, HNX – Index6 còn thảm hại hơn khi cũng trong ngày này rơi khỏi vạch xuất phát 100 điểm (chỉ còn 78,06 điểm).

Thực tế cho thấy, giai đoạn cuối năm 2008, đầu năm 2009 hầu như dòng vốn

“nóng”, dòng vốn được coi là bất ổn nhất đãđđược rút ra. Và phần lớn lượng vốn ở lại với thị trường chủ yếu là dịng vốnđđã đầu tư vào Việt Nam từ rất lâu, thậm chí có quỹ hoạt động đến cả chục năm rồi. Mục tiêu hướng tới của dòng vốn này làđđầu tư giá trị lại những cổ phiếu không có tính thanh khoản cao với mục tiêu làđđầu tư chiến lược. Như vậy, dòng vốn bất ổn nhất về cơ bản đã không còn chiếm tỷ trọng lớn treân thị trường Việt Nam.

Giai đoạn nửa cuối năm 2009, TTCK có xu hướng điều chỉnh tăng, VN – Index chốt phiên giao dịch ngày 30/06/2009 đạt 448,29 điểm, HNX – Index cũng trở lại ngưỡng điểm 149,09. Đến ngày 30/09/2009 VN – Index đạt 580,9 điểm, HNX – Index, tăng 146,7% so với đáy, HNX – Index … Điều quan trọng là sự phục hồi này mang nhiều yếu tố nội lực, khi nhà đầu tư trong nước không phụ thuộc vào quyết định của nhà đầu tư ngoại mà liên tục bơm tiền vào thị trường, gom mua cổ phiếu và đẩy chỉ số hai sàn phục hồi mạnh mẽ. Đây là một dấu hiệu

6 Từ 17/01/2009, TTDGCK Hà Nội trở thành SDGCK Hà Nội, cùng với sự ra đời của chỉ số HNX – Index thay thế cho chỉ số HASTC – Index.

đáng mừng cho thấy sự trưởng thành của nhà đầu tư trong nước, nhưng có lẽ sự trưởng thành này phần nào cũng do tương tác với NĐTNN trong những năm qua.

Năm 2010 khối ngoại mua khá mạnh, tổng khối lượng cổ phiếu mua lên đến 838 triệu đơn vị, đây là mức cao nhất từ trước đến nay. Giá trị mua ròng đến 202 triệu đơn vị cổ phiếu với giá trị tương đương 12.335 tỷ đồng. Tổng giá trị mua chỉ ủạt 37.396 tỷ ủồng chỉ tương ủương với năm 2009 nhưng khối lượng cổ phiếu mua được tương ứng lại bằng 110% năm 2009. Giá mua trung bình năm 2010 là 44.000 ủồng/cổ phiếu so với 48.000 ủồng/cổ phiếu năm 2009. Tớnh chung năm 2010, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tăng khoảng 1 tỷ USD, trong khi năm 2009, con số rút ra vào khoảng 500 - 600 triệu USD. Lý do chính để giải thích điều này có thể là sự hấp dẫn trở lại của cổ phiếu giá đã giảm nhiều trong năm 2010.

Nửa đầu năm 2011, VN-Index để mất 12,25% còn HNX-Index sụt giảm 36,31%. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có hiện tượng bán ròng của NĐTNN.

Giai đoạn nửa cuối năm 2011, VN-Index và HNX-Index vẫn giao động lên xuống nhưng xu hướng chung là giảm so với đầu năm. Ngày 30/11/2011, VN- Index và HNX-Index cùng xác lập mức thấp kỷ lục của năm 2011 mức 380,69 và 60,47, giảm lần lượt 21% và 45% so với đầu năm.

Bên cạnh kênh thu hút FPI qua TTCK và các quỹ đầu tư thì số ngân hàng thương mại cổ phần trong nước có tỷ lệ nắm giữ vốn nước ngoài ngày càng tăng trong mức khống chế 20% vốn điều lệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Hai năm gần ủaõy, trong bối cảnh kinh tế vĩ moõ Việt Nam phải ủối mặt với nhiều thách thức ngắn hạn, thì việc dòng tài chính mới chảy vào cho thấy đây cũng có thể là dòng vốn dài hạn, có khả năng chịu đựng rủi ro cao.

2.1.2.3 Vốn ODA

Năm 2006, giải ngaõn ODA Việt Nam ủạt gần 1,8 tỷ USD. Tại hội nghị thường niên nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2007, vốn ODA cam

Một phần của tài liệu Nghiên cứu vấn đề kiểm soát vốn tại việt nam (Trang 34 - 45)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(83 trang)